Chính nghĩa không thuộc về chế độ ngụy nô “Việt Nam Cộng Hòa”
Trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, dù phải
đối mặt với những đế quốc hung hãn, bạo tàn nhưng nhân dân ta vẫn dành được
chiến thắng cuối cùng. Chiến thắng ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử của dân tộc
Việt Nam như một mốc son chói lọi, một biểu tượng của tinh thần đoàn kết, thống
nhất, chủ nghĩa yêu nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Sự kiện này
đã một lần nữa khẳng định, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam là bất khả xâm
phạm, không có cường quốc nào có thể xâm chiếm. Ngày 30/4/1975, ngày mà quân
dân ta cho đoàn xe tăng tiến vào cổng Dinh độc lập, đánh đuổi quân Việt Nam
Cộng hòa, đưa cờ đỏ đỏ sao vàng tung bay trên nóc Dinh độc lập. Có thể khẳng
định, chiến thắng 30/4/1975 là biểu tượng sáng ngời của Chủ nghĩa anh hùng Cách
mạng Việt Nam, đỉnh cao của Khi phách, trí tuệ con người Việt Nam, rất nhiều
chuyên gia trên thế giới đã nói rằng, chiến thắng 30/4/1975 thực sự là cuộc
chiến gây “chấn động thế giới” và là cuộc chiến thần kỳ của thế kỷ XX. Cũng từ
đó, cứ đến dịp lễ 30/4 hàng năm, người dân Việt
Nam lại phấn khởi kỷ niệm chiến thắng chung của toàn dân tộc trước các thế lực
ngoại xâm – chiến thắng vĩ đại đã giúp non sông thu về một mối. Chiến thắng này
đã nối tiếp chiến thắng Điện Biên Phủ cũng như các chiến thắng hào hùng khác
của cha ông ta thời Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền,…
Chiến thắng 30/4/1975 đã đưa nhân dân ta đến gần hơn với
độc lập, tự do, Bắc Nam trở lại một nhà, cứ đến ngày này hằng năm nhân dân ta
lòng vui như mở hội, họ tự hào, nhớ lại công lao, quá khứ oanh liệt của cha ông
trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Mặc dù vậy, một bộ phận nhỏ người
gốc Việt sống ở nước ngoài, ở đây hầu hết là gia đình, người thân của lính ngụy
quân, ngụy quyền sống theo chế độ Việt Nam cộng hòa cũ làm tay sai cho đế quốc
Mỹ. Sau đại thắng 30/4/1975 chúng bỏ chạy và định cư luôn ở nước ngoài theo
kiểu tị nạn. Nhưng dù vậy, đã bao năm trôi qua kể từ ngày ấy, chúng vẫn sống và
nuôi ảo tưởng một ngày nào đó quay lại tiếp tục làm tay sai cho Mỹ xâm lược
Việt Nam, chúng tung hô chế độ Việt Nam Cộng hòa, chúng luôn đã kích, nói xấu
và tìm mọi cách để nói xấu Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta, chúng phủ nhận thành
quả cách mạng của dân tộc ta, thế hệ sau của chúng thì bị các thế hệ trước
tuyên truyền theo cách xuyên tác, lừa phỉnh nên họ vẫn coi cuộc kháng chiến
chống Mỹ như một cuộc nội chiến. Theo họ, cái chính thể mang tên “Việt Nam Cộng
hòa” là hoàn toàn hợp pháp và sự sụp đổ của chế độ đó là do sự “cưỡng chiếm” từ
miền Bắc.
Trước các luận điệu và sự ngộ nhận này, chúng ta cần nhìn
lại lịch sử sau bao nhiêu năm và làm một cuộc “khai quật” chế độ Việt Nam Cộng
hòa cùng hai công cụ bạo lực của nó là Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Cảnh sát
Quốc gia Việt Nam Cộng hòa để chúng thấy
rõ bản chất của chế độ nó và những sự thật mười mươi mà lịch sử thế giới cũng
phải công nhận.
Thứ nhất, “Chính quyền” Việt Nam Cộng
hòa là một chính quyền bất hợp pháp
Ngay từ đầu, chính thể “Việt Nam Cộng hòa” thành lập đã
không có một cơ sở pháp lý vững vàng nào. Nó ra đời theo kiểu “Pháp đẻ” và “Mỹ
nuôi”, nó được xây dựng lên với mục đích làm cánh tay nối dài để để quốc Mỹ dễ
dàng cai trị nhân dân miền nam. Ban đầu là một số tay sai, sau đó chúng tuyên
truyền, xuyên tạc và lôi kéo thêm nhều người nữa, cho nên mãi tới tận năm 1955
nó mới ra đời và ra đời một cách bất hợp pháp trên nửa lãnh thổ phía nam của
Việt Nam như một “sáng tạo” thuần túy của người Mỹ nhằm theo đuổi các mục tiêu
phản ánh lợi ích riêng của họ (thị trường Đông Nam Á, gia tăng ảnh hưởng ở vị
trí chiến lược, ngăn chặn làn sóng xã hội chủ nghĩa…) không được Nhân dân
công nhận, sự tồn tại của nó thực sự ở
thời điểm đó là một chính thể “có như không”.
Trong khi đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập một
cách chính danh trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1945 sau thành công cuộc
Cách mạng tháng Tám trường kỳ dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự đoàn kết, tinh
thần dân tộc của muôn triệu con dân đất Việt trước khi bất kỳ một lực lượng
quân Đồng minh nào vào giải giáp quân Nhật. Ngay trong năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành tổng tuyển
cử bầu Quốc hội theo chế độ phổ thông đầu phiếu trên toàn quốc với sự tham gia
của đông đảo đồng bào và đã có bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua – hai sự
kiện này đặt cơ sở pháp lý vững chắc cho nhà nước dân chủ mới khai sinh. Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành những sắc lệnh, những văn bản pháp lý
đầu tiên khẳng định nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ từ Bắc chí Nam.
Đây là sự kiện pháp lý mà thế giới phải công nhân. Không những vậy, sau năm
1954 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, dù đang trên thế thắng về mặt quân sự
(với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu) vẫn chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử
sòng phẳng trên tinh thần hòa hợp để thống nhất đất nước đang tạm thời bị chia
cắt. Tuy nhiên cả phía Mỹ và cái gọi là Việt Nam Cộng hòa đều kiên quyết từ
chối thiện chí đó!
Theo nội dung Hiệp định Geneva, Việt Nam chỉ tạm thời bị
chia cắt làm 2 miền, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời và không phải là biên
giới quốc gia. Theo Hiệp định này, hai bên sẽ tiến hành hiệp thương để thống
nhất đất nước trong năm 1956. Tuy nhiên ông Ngô Đình Diệm - do CIA (Mỹ) “tìm
thấy” và đưa về Việt Nam làm Thủ tướng của chính phủ bù nhìn Bảo Đại - đã tuyên
bố không có tổng tuyển cử gì hết, trắng trợn vi phạm Hiệp định Geneva, và đi
ngược lại nguyện vọng thống nhất của dân tộc. Thời đó, người Mỹ và phe cánh của
ông Diệm lo sợ uy tín to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và
Đảng Lao động Việt Nam và tin rằng nếu tiến hành bầu cử tự do, Hồ Chí Minh sẽ
giành được tới 80% số phiếu. Do vậy ông Diệm với sự giúp đỡ của người Mỹ đã
phải sử dụng nhiều “mưu hèn kế bẩn” để củng cố quyền lực của mình (với tư cách
là Thủ tướng), rồi gian lận trong cuộc “trưng cầu dân ý” để hạ bệ luôn Quốc
trưởng Bảo Đại, dựng lên “Việt Nam Cộng hòa” với Diệm làm Quốc trưởng và sau đó
là Tổng thống. Tiếp đó, ông Diệm áp dụng nhiều chiêu thức man rợ để tàn sát
những người kháng chiến cũ và những người yêu nước chân chính, khủng bố tinh
thần của nhân dân, củng cố chính quyền phản động của mình, công khai phá hoại
Hiệp định Geneva, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước.
Cảnh chính quyền “Việt Nam
Cộng hòa” xử bắn sinh viên Lê Văn Khuyên ngày 29/1/1965 ngay trên đường phố Sài
Gòn (ảnh: Tư liệu)
Sau khi đã củng cố vững chắc chính quyền, Ngô Đình Diệm đã
cho tiến hành “cải cách điền địa” với nội dung ngược với “cải cách ruộng đất”
(mục tiêu dân cày có ruộng) mà cách mạng đã tiến hành trước đó. Với “cải cách
điền địa”, ông Diệm đã tước đoạt đất đai của nông dân và khôi phục lại giai cấp
địa chủ, tạo thêm chỗ dựa xã hội cho chế độ. Cho nên, sau này dù có mị dân đến
mấy, chính quyền này cũng không giành được sự ủng hộ ở nông thôn.
Về bản chất chính trị, “Việt Nam Cộng hòa” đại diện cho các
tầng lớp tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ. Đế quốc Mỹ điều khiển cả chính
quyền Việt Nam Cộng hòa như một công cụ. Không những ngày trước mà ngay cả bây
giờ, chế độ Việt Nam Công hòa vẫn đang được Mỹ, Hoa Kỳ nuôi dưỡng tại một tiểu
bang Califonia tiếp tục hoạt động phục vụ âm mưu chống phá Việt Nam, chúng xem
đây là một mắt xích trong cuộc chiến “diễn biến hòa bình” mà chúng đang thực
hiện với Việt Nam.
Nền tảng trực tiếp cho sự ra đời của Việt Nam Cộng hòa là
chính thể “Quốc gia Việt Nam” (1949-1955) – đây là một chế độ bù nhìn do Pháp
lập nên trong thời kỳ kháng Pháp và do cựu hoàng Bảo Đại (mất ngôi hoàng đế sau
Cách mạng tháng Tám) làm quốc trưởng. Quốc kỳ “ba que” của Việt Nam Cộng hòa
cũng chính là quốc kỳ của “Quốc gia Việt Nam” được Pháp “trao trả độc lập”. Như
vậy, ngay từ đầu, chính thể này đã phạm nhiều tội ác và mang “gene” Việt gian
rất rõ nét, từ “từng lỗ chân lông” của mình. Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam”
sang “Việt Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang
làm tay sai cho đế quốc Mỹ.
Theo
thời gian, chính thể Việt Nam Cộng hòa ngày càng thối nát với tệ nạn tham
nhũng, các cuộc đấu đá nội bộ và các cuộc đảo chính quân sự. Chế độ này không
đại diện cho dân tộc và trên thực tế đã bị nhân dân và lịch sử quay lưng lại.
Còn
tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rất cao, nên Mỹ không thể lấy
cớ để lôi kéo quân của Liên Hợp Quốc vào lãnh thổ Việt Nam tham chiến như đã
từng xảy ra trên bán đảo Triều Tiên.
Quân đội, cảnh sát mang gốc gác thực
dân
Không nói thì ai cũng có thể hiểu điều này, khi Chính thể
Việt Nam Cộng hòa là phi pháp, là tay sai, công cụ thay Mỹ cai trị, đàn áp nhân
dân thì các công cụ bạo lực của nó cũng chỉ là lực lượng phản dân hại nước,
đang tâm làm tay sai cho các thế lực ngoại bang. Quân lực Việt Nam Cộng hòa
thường khoe là chiến đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền. Tuy nhiên quân đội này
lại phát xuất từ chính lực lượng ngụy quân đã sát cánh bên quân đội viễn chinh
Pháp dưới lá cờ tam tài! Đa phần các tướng lĩnh cao cấp của quân đội Sài Gòn
đều đã từng phục vụ trong quân đội Pháp hoặc quân đội “Quốc gia Việt Nam” của
Bảo Đại để bảo vệ nền thống trị của người Pháp ở Đông Dương. Viên tướng tư lệnh
Phạm Văn Phú, kẻ đã bại trận thảm hại tại chiến trường Tây Nguyên năm 1975,
cũng từng là lính Việt chiến đấu hăng hái bên các chiến hữu Pháp tại Điện Biên
Phủ năm 1954. Tại Điện Biên, ông Phạm Văn Phú khi đó si mê hát Quốc ca Pháp, hô
hào các binh sĩ ngụy khác đánh trả quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp.
Cái gọi là “Cảnh sát Quốc gia” của chế độ ngụy cũng không
hơn. Nó bắt nguồn từ lực lượng cảnh sát và mật thám của Pháp tại Đông Dương từ
năm 1946. Tướng Nguyễn Ngọc Loan - Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia ngụy, kẻ đã
dùng súng lục bắn thẳng vào đầu một tù binh cộng sản ngay trước ống kính máy
ảnh và máy quay phim của phóng viên ngoại quốc trên đường phố Sài Gòn năm 1968
- xuất thân là quân nhân trong quân đội Liên hiệp Pháp.
Người dân Sài Gòn đón chào quân giải phóng tháng 4/1975
(ảnh: Báo chí nước ngoài).
Khu vực Dinh "Độc lập" vào ngày
30/4/1975 (ảnh: Tư liệu)
Đến
khi đổi chủ, hai lực lượng này lại hết lòng với các quan thầy Mỹ. Dù người ta
có ngụy biện đến thế nào cũng không thể phủ nhận bản chất tay sai của quân đội
và cảnh sát ngụy.
Cả
quân lực và cảnh lực ngụy đã tham gia vào những chiến dịch “diệt cộng” rất dã
man, trên tinh thần “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thời Diệm, với luật 10/59,
máy chém được lê khắp miền Nam để chặt đầu người cộng sản và làm họ lung lạc ý
chí.
Trong
“cuộc chiến vì tự do”, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sát cánh và tiếp tay cho
“ông chủ” của mình là quân viễn chinh Mỹ - những kẻ đã phạm nhiều tội ác phi
nhân tính như hãm hiếp phụ nữ Việt Nam, thảm sát dân thường (tiêu biểu có
trường hợp Mỹ Lai), sử dụng chất độc da cam, sử dụng bom napalm và các loại bom
chùm có sức sát thương tàn bạo…
Với
những đòn nhục hình gần như chỉ để triệt hạ các tù binh cộng sản (đóng đinh vào
đầu, đục răng, đục xương bánh chè, luộc sôi người, đốt cơ quan sinh dục…), nhà
tù Phú Quốc - địa ngục trần gian do quân đội Sài Gòn tạo ra (sau khi học hỏi
kinh nghiệm của chuyên gia Mỹ) - là minh chứng hùng hồn cho những vi phạm nhân
quyền và những tội ác kiểu trung cổ trời không dung đất không tha của chế độ
ngụy.
Quân
đội ngụy hoàn toàn được đào tạo theo lối Mỹ, được trang bị cực tốt và đầy đủ,
có hỏa lực mạnh và sức cơ động cao, hoạt động cực kỳ tốn kém theo kiểu Mỹ và
bằng ngân sách Mỹ. Đã vậy, khi tác chiến quân đội Sài Gòn còn nhận được sự cố
vấn của chuyên gia quân sự Mỹ và sự hỗ trợ tối đa về hỏa lực và hậu cần từ phía
quân đội Mỹ. Nói cách khác, quân đội Sài Gòn là một đội quân đánh thuê cho đế quốc
Mỹ và được Mỹ ưu ái đầu tư bài bản.
Tuy
nhiên, có một thứ mà chính người Mỹ cũng thừa nhận là họ không thể mang đến cho
Quân lực Việt Nam Cộng hòa được – đó là tinh thần chiến đấu quả cảm và sự mưu
trí sáng tạo.
Với
bản chất đánh thuê (và cả chết thuê nữa), quân đội Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc
vào Mỹ, thiếu lý tưởng, không thể đại diện cho dân tộc Việt Nam và cũng không
thể kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc. Đến khi Mỹ rút viện trợ và ngưng
yểm trợ thì quân đội này (cùng với chính thể Việt Nam Cộng hòa) suy sụp nhanh
chóng, không còn biết “đánh đấm gì nữa”, chẳng khác nào “bệnh nhân bị rút ống
thở”.
Trong
đợt tổng công kích của quân giải phóng năm 1972, quân ngụy Sài Gòn trụ vững
được phần lớn là nhờ Hoa Kỳ đã yểm hộ tối đa cho họ bằng phi pháo và oanh tạc
cơ chiến lược B-52. Đến năm 1975, khi bị người Mỹ bỏ rơi thì họ đã không thể
chống đỡ nổi các đòn tiến công dũng mãnh của quân giải phóng. Sau khi trúng đòn
điểm huyệt ở Buôn Ma Thuột, dù lực lượng vẫn đông và vũ khí còn nhiều (hơn hẳn
quân giải phóng) nhưng quân đội ngụy ở Tây Nguyên đã nhanh chóng rã đám do
thiếu mưu lược và do sĩ quan của họ chỉ mải lo cho gia đình mình và di tản một
cách hỗn loạn, khiến thế trận của ngụy quyền ở toàn bộ Tây Nguyên sụp đổ.
Một
số kẻ cố bào chữa cho ngụy quyền Sài Gòn, cho rằng nếu quân đội Sài Gòn đánh
thuê cho Mỹ thì quân đội nhân dân Việt Nam hoạt động theo chỉ đạo của Liên Xô.
Vế
thứ 2 của luận điệu trên là hoàn toàn không đúng. Vì Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn giương cao và kết hợp nhuần nhuyễn hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Quân đội Nhân dân Việt Nam trân
trọng sự giúp đỡ quý báu của nhân dân các nước XHCN nhưng không bao giờ ỷ lại
vào đó. Trong tác chiến, quân đội nhân dân Việt Nam có tham khảo kinh nghiệm và
lý luận quân sự của nước khác nhưng là trên tinh thần độc lập tự chủ, tự lực
cánh sinh, xuất phát từ thực tiễn dân tộc và đất nước (trường hợp thay đổi
phương châm tác chiến tại Điện Biên Phủ là một ví dụ điển hình). Và Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa cũng không để cho quân đội nước bạn nào vào lãnh thổ để tham
chiến bên cạnh mình. Trong khi đó, Việt Nam Cộng hòa đã để cho nửa triệu quân
Mỹ và nhiều quân chư hầu của Mỹ vào giày xéo đất nước.
Nếu
xét về viện trợ thì những gì mà Liên Xô và Trung Quốc cung cấp cho Quân đội
Nhân dân tuy lớn nhưng đâu thấm tháp so với khối lượng khổng lồ tiền bạc, vũ
khí và quân cụ mà Mỹ đổ vào quân đội Sài Gòn. Nên nhớ, trong hoàn cảnh thời đó,
mức lương của một sĩ quan ngụy rất cao, đủ nuôi sống cả gia đình họ.
Tất
nhiên, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bao gồm những người con đất Việt máu đỏ da
vàng, mang trong mình các nét văn hóa Việt. Tuy nhiên họ đã không phát huy được
sức mạnh của văn hóa và truyền thống tổ tiên, vì họ đã sống trong môi trường
tha hóa và thiếu chính danh của Việt Nam Cộng hòa, đã lầm đường lạc lối, đã bị
lừa dối, bị ép buộc, hoặc đơn giản là hành động chỉ vì miếng cơm manh áo.
Lòng dân
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, lòng dân luôn hướng về Đảng Cộng sản Việt Nam, cả ở miền Bắc lẫn miền Nam.
Trong
suốt thời gian tồn tại của mình, dù nhiều lần hô hào Bắc tiến nhưng quân đội
Sài Gòn chưa bao giờ có khả năng đưa lục quân ra miền Bắc XHCN, ngược lại họ
luôn trong thế phòng ngự.
Nhân
dân Sài Gòn vui mừng chào đón các chiến sĩ giải phóng tháng 4/1975 (ảnh: Tư
liệu)
Trong
thời kỳ 1955-1975, không có một quân đội thứ 2, một chính quyền thứ 2 ở miền
Bắc, cũng không có biểu tình và các lực lượng chống đối ở miền Bắc. Nếu có thì
đó chỉ là các toán gián điệp-biệt kích do Mỹ-ngụy tung ra Bắc nhưng các nhóm
này đều nhanh chóng bị cơ quan an ninh cách mạng bắt gần như toàn bộ với sự trợ
giúp của quần chúng. Điều duy nhất Mỹ-ngụy có thể làm là đưa máy bay vượt vĩ
tuyến 17 ném bom phá hoại miền Bắc XHCN, giết hại dân thường.
Trong
khi đó, ở miền Nam dưới ách Mỹ-ngụy, liên tục diễn ra các cuộc biểu tình của
dân chúng, của Phật giáo, sinh viên, trí thức, ký giả…, các hoạt động đấu tranh
vũ trang rộng khắp của quần chúng phá thế kìm kẹp ở nông thôn (như phong trào
đồng khởi ở Bến Tre và toàn Nam bộ).
Nằm
ngay cửa ngõ Sài Gòn là khu “đất thép” Củ Chi của các du kích và quân giải
phóng miền Nam, tồn tại bao năm như cái gai thách thức chế độ Mỹ-ngụy, những kẻ
đã trút xuống đó vô số bom đạn và mở nhiều cuộc càn quét sử dụng các loại vũ
khí tối tân nhưng không tài nào khuất phục được ý chí của quân dân Củ Chi.
Cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 đã giáng một đòn mạnh vào Mỹ-ngụy, làm
cho Mỹ nhận ra rằng họ không thể thắng ở miền Nam Việt Nam, đồng thời chỉ cho
thế giới thấy chính thể Việt Nam Cộng hòa mất lòng dân đến mức nào.
Vì
rõ ràng, những người cộng sản không thể tiến hành một cuộc tấn công đồng loạt,
rộng khắp và mãnh liệt trong thời gian dài như vậy (trên toàn đô thị miền Nam,
trong điều kiện hết sức khó khăn) nếu thiếu sự che chở bao bọc của đông đảo
nhân dân.
Nếu
cái gọi là Việt Nam Cộng hòa thực sự hợp lòng dân, được nhân dân ủng hộ thì có
lẽ sẽ không xuất hiện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (vào năm 1960), cùng
với lực lượng Quân Giải phóng miền Nam (năm 1961), rồi sau đó là chính phủ Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam (vào năm 1969) ngay trên phần đất của miền Nam Việt Nam,
với nhân lực chính là người miền Nam, nói giọng miền Nam. Như vậy ở phía nam vĩ
tuyến 17 đã hình thành 2 vùng kiểm soát với 2 quân đội tương ứng, khiến cho
tính hợp pháp và chính danh của chế độ Việt Nam Cộng hòa vốn đã kém lại càng bị
thách thức nghiêm trọng.
Nhân
dân Sài Gòn vui vẻ chào đón và hỏi han các chiến sĩ giải phóng quân ngày
30/4/1975 (ảnh: Tư liệu nước ngoài)
Thậm
chí ngay cả ở những vùng Mỹ-ngụy chiếm giữ, vẫn tồn tại song song hai hệ thống
chính quyền, hai lực lượng. Một bên là chế độ ngụy công khai, một bên là các
đảng bộ cộng sản cùng các đơn vị công an và bộ đội địa phương hoạt động ngầm
tương ứng với các đơn vị hành chính. Ý Đảng luôn thống nhất với lòng dân, các
đảng viên kiên định bám sát quần chúng như cá với nước. Địch phải liên tục đối
phó với chiến tranh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân ở khắp nơi. Ngay giữa
Sài Gòn, kẻ địch thường xuyên phải căng thẳng vì những trận đánh xuất quỷ nhập
thần của biệt động Sài Gòn (thuộc quân đội nhân dân) và lực lượng an ninh T4
(thuộc công an nhân dân).
Hệ
thống cảnh sát ngụy dù dày đặc và rất hung hãn nhưng không thể cản ngăn phong
trào đấu tranh của quần chúng, không thể bắt hết cán bộ cách mạng được nhân dân
bảo vệ. Ngược lại, chính lực lượng tình báo cách mạng đã xâm nhập hết sức hiệu
quả vào bộ máy an ninh tình báo ngụy và hệ thống chính quyền ngụy, kể cả ở cấp
cao nhất.
Trước
giờ cáo chung, ngụy quyền còn tuyên truyền quân giải phóng sẽ dìm Sài Gòn trong
biển máu. Nhưng cuối cùng thì không có cuộc tắm máu nào như thế cả. Ngược lại,
những người hạ vũ khí về với nhân dân đã nhận được sự khoan hồng của cách mạng.
Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho
thấy quần chúng hồ hởi đón chào quân giải phóng đến nhường nào trong trưa
30/4/1975 tại Sài Gòn.
Như vậy, có thể khẳng định
một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là nội
chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại ngoại
xâm và tay sai của ngoại bang./.
Chính nghĩa không thuộc về chế độ ngụy nô “Việt Nam Cộng Hòa”
Reviewed by Sân Đình
on
01:56
Rating:

3 nhận xét:
có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cuộc Chiến tranh Việt Nam 1955-1975 không phải là nội chiến mà là cuộc kháng chiến chính nghĩa do toàn dân tiến hành chống lại ngoại xâm và tay sai của ngoại bang
Giá như ngày đó cho bọn VNCH nó làm trâu làm chó cho bọn Mỹ mịa đi, giải phóng chi để bây giờ chúng nó cứ quay lại cắn như chó dại. Cha ông thì đổ xương máu để giữ nước, cứu dân tộc, bọn 3/// này thì bị Mỹ nó nhồi vô não một đống cứt và cứ thế mãi về sau lẽo đẽo theo chúng nó xin cứt thôi
đất nước trọn niềm vui. bắc nam chung một nhà..có điều gì quý hơn thế nữa và sự thật chúng ta đã được sống trong hòa bình độc lập 42 năm và mãi mãi sau như thế nữa.chào mừng ngày 30-4 vĩ đại của dân tộc đất nước được hoàn toàn giải phóng và thống nhất. kể từ đó nước ta mới yên tâm phát triển được, dân ta mới có được cuộc sống tự do, thoát khỏi ách đô hộ
Đăng nhận xét