Ngày 30/4 nói về hòa hợp và thống nhất dân tộc.
Blog
Sân Đình xin gửi tới độc giả bài viết của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng khóa X, XI, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo
Trung ương.
Trong bài viết này, tác giả chia sẻ quan
điểm của mình về hòa hợp và thống nhất dân tộc nhân dịp kỷ niệm 42 năm ngày
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Mấy hôm nay, qua đài báo, được xem và
nghe lại các tư liệu lịch sử hồi tháng 4 của bốn mươi hai năm trước, trong ký
ức chúng tôi lần lượt nhớ lại nhiều kỷ niệm, về con người và sự kiện, niềm vui
và nỗi buồn, sự xúc động và hào khí non sông… ngày ấy.
Và từ đó, nhìn lại, suy ngẫm nhiều điều.
Về những chuyện đã đi qua, còn đọng lại, đang diễn ra, và kể cả dự báo tương
lai, đối với đất nước mình.
Dân tộc ta, do vị trí quan trọng về địa
kinh tế và địa chính trị, trong lịch sử đã phải đương đầu với nhiều thế lực xâm
lăng từ phương Bắc và phương Tây.
Hàng chục cuộc chiến tranh vệ
quốc lớn nhỏ đã diễn ra. Các thế lực địch thủ ấy đều hùng mạnh, hơn ta
nhiều chục lần xét về so sánh tương quan lực lượng.
Nhưng dân tộc Việt Nam không khuất phục,
không đầu hàng hoặc bị đồng hóa. Đó là nhờ sức mạnh của nền văn hóa và sự thống
nhất dân tộc.
Trong dân tộc, có những con người, nhiều
con người, hợp thành một cộng đồng chung. Cá nhân mỗi người đều quan trọng.
Nhưng nếu chỉ có từng con người riêng
rẽ, thì dù có đông bao nhiêu cũng không có sức mạnh. Rất dễ bị bẻ gãy.
Lịch sử thế giới đã từng chứng kiến, có
những dân tộc rất đông người, nhưng đã bị đánh bại và chịu sự cai trị của một
đội quân ít người, từ một quốc gia ít người hơn nhiều so với nước bị xâm lăng.
Sức mạnh trường tồn của một dân tộc gắn
với văn hóa giữ nước và sự thống nhất bền chặt của dân tộc ấy. Nói đến văn hóa
của một dân tộc thì bao gồm sự thống nhất bên trong của dân tộc ấy.
Và chính đặc
điểm thống nhất, bền chặt hay lỏng lẽo, đã tạo ra văn hóa của dân tộc đó.
Trong quá trình cai trị nước ta, thực
dân xâm lược đã từng chia ra 3 miền Bắc-Trung-Nam, với cách cai quản khác nhau,
một mặt là để phù hợp với đặc điểm của vùng miền, nhưng cái chính là “chia để
trị”, nhằm hạn chế sự thống nhất của dân tộc này.
Đã có những ý kiến của nhiều người, nói
và viết về điều này. (Tất nhiên khoa học còn phải tiếp tục nghiên cứu).
Sức mạnh trường tồn của một dân tộc gắn với văn hóa giữ nước và sự thống nhất bền chặt của dân tộc ấy. (Ảnh minh họa: VGP)
Trong lịch sử, chúng ta đã nhiều lần bị
mất nước. Một nghìn năm Bắc thuộc, hai mươi năm Minh thuộc, một trăm năm thuộc
Pháp, hai mươi năm thuộc Mỹ ở Miền Nam.
Các thời kỳ ấy, dân ta không có nhà nước
của mình, mà chỉ có các tổ chức xã hội tự quản của nhân dân, trước nhất là các
làng.
Cộng đồng làng là một đặc điểm của văn
hóa Việt Nam. Các nước khác không có làng như kiểu nước ta. Tất cả các làng ấy
hòa hợp, thống nhất với nhau trong một cộng đồng lớn thì thành nước.
Xã hội và dân tộc Việt Nam lúc đó tồn
tại với tư cách là một cộng đồng nhờ các tổ chức xã hội này và các phong trào
của nhân dân do các tổ chức ấy tạo nên. Nước mất nhưng làng không mất.
Với tinh thần và ý chí thống nhất của
dân tộc, các làng đã liên kết lại với nhau để cùng giành lại đất nước. Và đã
thành công.
Cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đầu thế kỷ
thứ 10, khởi nghĩa Lam Sơn đầu thế kỷ 15, cuộc cách mạng tháng 8/1945 và chiến
thắng 30/4/1975 đã giành lại đất nước (và miền Nam) mà trước đó đã mất vào tay
xâm lược.
Khi Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước bị
chia cắt làm đôi suốt hai trăm năm.
Với công lao của nhà Tây Sơn và tiếp
theo là nhà Nguyễn, đất nước đã thống nhất.
Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 do sự tính
toán với các ý đồ xấu của một số nước lớn và với sức ép của họ nước ta đã bị
chia đôi.
Ta suy nghĩ và tính toán đó là bước đi
tạm thời, rất ngắn, và sau đó sẽ thống nhất lại đất nước. Nhưng một số nước lớn
thì lại tính toán với ý đồ khác, họ muốn chia cắt đất nước và dân tộc Việt Nam
lâu dài.
Tại sao họ muốn thế? Ngoài những lý do
khác, có một lý do sâu xa, ẩn chứa mưu toan thâm hiểm, đó là, hai nửa Việt Nam
không thống nhất họ dễ chi phối hơn một Việt Nam thống nhất.
Nói cách khác là, hai Việt Nam nhỏ họ dễ
chi phối hơn một Việt Nam lớn. Việc đó giống như hai miếng nhỏ dễ nuốt hơn một
miếng lớn.
Dân tộc ta đã kiên trì đấu tranh và tốn
nhiều máu xương cho sự thống nhất đất nước, trong điều kiện có những thế lực
rất mạnh không muốn ta thống nhất và họ đã tìm mọi cách để ngăn cản, cho đến
cuối cùng.
Chắc nhiều người còn nhớ, chỉ có mấy
ngày sau khi quân ta vào Sài Gòn thì tiếng súng ở biên giới phía Tây-Nam bắt
đầu nổ.
Thực ra thì họ muốn cuộc chiến ở biên
giới ấy nổ ra khi ta chưa kết thúc việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
Khi cuộc chiến thứ nhất chưa xong, mà
cuộc thứ hai đã xuất hiện, thì ta không đủ sức cùng lúc đối phó với cả hai cuộc
chiến. Và đất nước không thể thống nhất được.
Thực tế chứng minh họ đã tính toán như
vậy.
Kế hoạch ban đầu của ta là năm 1976 mới
kết thúc. Nhưng ta đã về đích sớm hơn một năm so với dự kiến ban đầu, nên cuộc
chiến thứ hai chưa kịp xảy ra khi ta đã kết thúc cuộc thứ nhất.
Với sự thành
công của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và sự kiện lịch sử 30/4/1975,
chúng ta đã giành lại độc lập và thống nhất đất nước. Đó là sự chiến thắng bởi
ý chí độc lập và thống nhất của dân tộc ta.
Nhiều văn bản chính thống và các tài
liệu khác đã gọi sự kiện 30/4/1975 là chiến thắng, là đại thắng, là giải phóng
miền Nam.
Cách gọi ấy,
theo một nghĩa nào đó, thì vẫn đúng, không có gì sai. Nhưng tôi vẫn thích hơn
cách gọi, và cũng đã nhiều lần gọi như thế, sự kiện 30/4/1975 là sự thống nhất
non sông (về một mối).
Đối với quốc gia nào cũng vậy, thống
nhất đất nước và dân tộc bao giờ cũng là sự kiện hết sức quan trọng, có ý nghĩa
nhân văn và lịch sử to lớn.
Đối với Việt Nam, sự kiện 30/4/1975 là
một sự kiện lớn lao, sẽ trường tồn cùng năm tháng và lịch sử dân tộc. Chúng tôi
nghĩ, và tin, như thế!
Đất nước đã thống nhất 42 năm rồi. Gần
một nửa thế kỷ rồi. Nhiều người ngày ấy còn trẻ, nay đã về hưu hoặc đã không
còn sống nữa. Niềm vui đã đến tuy lớn lao, nhưng nỗi buồn vẫn chưa vơi hết.
Đất nước thống nhất lâu rồi, nhưng dân
tộc thì vẫn chưa hoàn toàn thống nhất, thành một khối bền chặt.
Đây đó vẫn còn những người Việt Nam chưa
hòa nhập với đại gia đình Tổ Quốc, dù không ai muốn vậy.
Vết thương chiến tranh trong lòng dân
tộc vẫn còn đó, tuy đã bớt đi nhiều nhưng vẫn chưa khỏi hẳn. Mỗi khi trái gió
trở trời nó lại đau nhức.
Lãnh đạo chẳng ai muốn vậy. Nhân dân
cũng thế. Tổ Quốc luôn sẵn lòng đón mọi đứa con dù tính khí khác nhau trở về
với đại gia đình Tổ quốc.
Và mọi đứa con
dù đang sống nơi chân trời góc bể nào, dù có quan điểm khác nhau, trong lòng
vẫn luôn hướng về đất mẹ. Tinh thần dân tộc và yêu nước vẫn luôn có trong dòng
máu của họ.
Nhưng vì sao dân tộc vẫn chưa hoàn toàn
là một? Đây là câu chuyện của một cuộc chiến tranh dài trên đất nước ta, thực
tế máu xương đã đổ, dù ta không cố ý gây nên mà do kẻ xấu từ bên ngoài muốn
chia cắt lâu dài đất nước này.
Tất nhiên cũng không nên đổ lỗi hoàn
toàn cho hoàn cảnh, mà vẫn có trong đó trách nhiệm của từng người sau chiến
tranh, trước nhất là những người lãnh đạo, sau nữa là của mọi công dân.
Công bằng mà nói, ngày ấy, trước khi kết
thúc chiến tranh, Ban lãnh đạo đất nước đã có chủ trương xóa bỏ hận thù, thực
hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc.
“Ta lại về ta những đứa con. Máu hòa
trong máu đỏ như son. Sài gòn ơi, Huế ơi! Xin đợi. Tái hợp huy hoàng cả nước
non”.
Đó là lời thơ của Tố Hữu viết năm 1973,
thể hiện tinh thần của Ban lãnh đạo đất nước ngày đó.
Rất tiếc là tinh thần hòa hợp dân tộc
đúng đắn ấy đã không được quán triệt và thực hiện đầy đủ, nhất quán ở mọi lúc,
mọi nơi.
Đã có không ít những sai lầm do tư tưởng
hẹp hòi, định kiến, phân biệt đối xử, tạo nên ngờ vực và quy chụp “địch-ta”, đã
duy trì hoặc làm trầm trọng hơn hố sâu ngăn cách.
Trong khi chiến tranh đã kết thúc lâu
rồi, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thành đối tác toàn diện của nhau, các cựu thù là
người Việt và người Mỹ đã từng xáp chiến quyết tử năm xưa nay đã thành bạn và
đối tác của nhau.
Vậy mà người Việt với nhau vẫn chưa xóa
bỏ xong ngăn cách.
Tất nhiên, về mặt khác của tình hình,
chúng ta biết có những kẻ cơ hội chính trị đã kích thêm vào hoặc xuyên tạc và
bịa đặt thông tin, làm cho trắng đen nhập nhòa, lẫn lộn.
Nhưng đó là việc khác, điều muốn nói ở
đây là về những sai lầm chủ quan, đáng tiếc.
Lại thêm nữa, một bộ phận khác, không
liên quan gì đến hai chiến tuyến của thời chiến tranh, có quan điểm khác với
lãnh đạo, cũng dễ bị quy chụp là “gây chệch hướng” hoặc “tuyên truyền chống nhà
nước”, (mặc dù Đảng đã có chủ trương về sự đa dạng trong văn hóa và tôn trọng
tự do tư tưởng), đã vô tình đẩy họ về phía bất đồng chính kiến.
Vậy là vết thương chiến tranh trong lòng
dân tộc vẫn còn, lại cộng thêm vào nữa là sự bất đồng chính kiến của một bộ
phận khác, đã làm ảnh hưởng đến khối thống nhất và sự cố kết bền vững của dân
tộc.
Và điều đó là bất lợi cho công cuộc bảo
vệ và xây dựng đất nước, nhất là khi có thế lực từ bên ngoài muốn lấn ép nước
ta để tranh giành biển đảo.
Khắc phục tình trạng chưa hòa hợp, thống
nhất ấy là việc quan trọng cần làm, có ý nghĩa chiến lược trên nhiều mặt, kể cả
văn hóa, chính trị và kinh tế, để có sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam
trong bảo vệ và phát triển đất nước, trước mắt và lâu dài.
Nghị quyết của nhiều lần đại hội Đảng
toàn quốc đã xác định sức mạnh và động lực quan trọng nhất để thực hiện mọi
công việc là đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong di chúc của Bác Hồ để lại cho toàn
Đảng, toàn dân, người đã đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất và đoàn kết.
Hàng triệu con người đã hy sinh trong
chiến tranh, có những người còn rất trẻ, trước khi ngã xuống, tất cả đều mang
theo niềm tin và thiết tha mong muốn về sự thống nhất đất nước và thống nhất
toàn dân tộc.
Mọi người Việt Nam còn đang sống hôm
nay, trước nhất là những người lãnh đạo các cấp, không thể nào quên “lời
nguyền” cùng với những người đã hiến dâng cuộc sống cho sự thống nhất dân tộc.
Để thực hiện hòa hợp, thống nhất và đại
đoàn kết toàn dân tộc, phải có tinh thần cởi mở, khoan dung, có hiểu biết sâu
sắc về sự đa dạng văn hóa và tự do tư tưởng cần thiết cho đời sống xã hội như
sự đa dạng sinh học cần cho thế giới tự nhiên.
Nếu làm mất đi tính đa dạng ấy thì xã
hội và tự nhiên sẽ nghèo nàn, thiếu sức sống, hạn chế khả năng sáng tạo, mất đi
sức đề kháng.
Nói cách khác là làm yếu đi một dân tộc.
Ai cũng biết, nếu chỉ có yếu tố tinh thần, tư tưởng không thôi thì chưa đủ, tất
nhiên rồi, nhưng phải bắt đầu từ đó, và đó còn là nền tảng cho trường tồn và
phát triển, vì là văn hóa.
Tiếp theo, và đồng thời, là những chính
sách, cơ chế và cách ứng xử cụ thể đối với từng vụ việc và từng con người.
Từ những việc tưởng là nhỏ, cộng nhiều
việc như thế, sẽ tạo ra những chuyển động lớn, khí thế mới, sức mạnh mới, của
cả một dân tộc.
Từ thế hệ hôm nay, chuyển dần sang các
thế hệ sau, thành cả một dân tộc ở tầm cao mới, đủ sức là “Phù Đổng Thiên
Vương” như mơ ước từ thuở cha ông bắt đầu dựng nước.
(Theo Giáo Dục)
Ngày 30/4 nói về hòa hợp và thống nhất dân tộc.
Reviewed by Sân Đình
on
04:48
Rating:

4 nhận xét:
Mỗi khi đến ngày thống nhất thì trong lòng mọi người đều mang trong mình niềm tự hào là người Việt Nam, dân tộc vợt qua bao đau thương để có một ngày thống nhất độc lập
Ngày cả nước vui chung một niềm vui độc lập, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, giang sơn thu về một mối <3 Chiến thắng đó một lần nữa minh chứng cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam, môt dân tộc anh hùng, chưa hề khuất phục trước bất cứ kẻ xâm lược nào!
GIải phóng miền Nam thống nhất đất nước,hai miền Bắc Nam không con chia rẽ,nhân dân cùng nhau xây dựng đất nước.Âm mưu của đế quốc xâm lược bị thất bại càng thể hiện rõ hơn tầm vóc cửa Đại Việt chúng ta.Một nước tuy bé về diện tích hình hài bé về kinh tế bé về trang thiết bị vũ khí mà chiến thắng được Mĩ
Ngày 30 tháng 4 ngày mà miền Nam VIệt Nam hoàn toàn thống nhất.Nhân dân ta vui mừng phấn khởi,sau bao nhiêu năm chiến đấu thì nay nhân dân ta đã giải phóng được miền Nam thóng nhất đất nước.Đây là mốc son chói lọi của dân tộc ta,Từ đây nhân dân ta sống trong cuộc sống bình yên
Đăng nhận xét