SỨC THUYẾT PHỤC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Từ khi lý luận về “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” được nghiên cứu và triển khai ở Việt Nam đến nay, đã có nhiều ý kiến
tranh luận, thậm chí có ý kiến còn phê phán, bác bỏ. Nhưng các thành tựu phát
triển đất nước trong các năm qua đã chứng minh thể chế kinh tế của chúng ta là
đúng đắn, là phù hợp với mục đích của cách mạng Việt Nam, phù hợp với con đường
đã được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn.
Trong
một số cuộc trao đổi học thuật và trên một số diễn đàn, nhiều người cho rằng
kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) chưa có tiền lệ
trong lịch sử, khó tránh khỏi sai lầm, vấp váp, cho nên phải “dò đá qua sông”.
Có người thì nói, kinh tế thị trường mang giá trị phổ quát của nhân loại, không
cần thiết phải thêm “cái đuôi” XHCN. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, chủ nghĩa xã
hội (CNXH) và KTTT không thể dung nạp lẫn nhau nên gắn KTTT với CNXH là khiên cưỡng…
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không tranh luận về học thuật, mà chỉ đề
cập đến các vấn đề thực tiễn trong quá trình phát triển của đất nước, và sự
tiếp nhận của cuộc sống người dân, sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với
KTTT định hướng XHCN.
Trước
hết, đối với Đảng ta, CNXH không phải một giáo điều xơ cứng mà chính là nhu cầu
của cuộc sống. Ngay từ khi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn
Quốc tế III và Người nói, sở dĩ Người có sự lựa chọn này vì Quốc tế III đề cập
đến con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức. Người nói: “Tự do cho đồng bào
tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả
những điều tôi hiểu” (Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị Quốc gia,
Tập 1, H.2006, tr.112). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ mong muốn và nhận thức
đó, cũng là mong muốn và sự nhận thức của cả dân tộc ta trong hoàn cảnh nước
mất, nhà tan.
Sau
khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói một cách giản dị
về mục tiêu của cách mạng: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá
giàu, người khá giàu thì giàu thêm” (Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 5, NXB Chính
trị Quốc gia, H.2011, tr.81). Có thể nói, lời của Bác Hồ đã đưa ra chấm phá đầu
tiên về mục tiêu của KTTT định hướng XHCN, bởi xét đến cùng thì không có kinh
tế thị trường thì người đủ ăn khó có thể “khá giàu”, người giàu khó có thể
“giàu thêm”. Và nếu không có định hướng XHCN, thì chắc chắn người nghèo khó có
thể “đủ ăn”.
KTTT
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi người, bình đẳng về cơ hội và bình
đẳng trước rủi ro, tức là cơ hội để thành đạt ngang nhau, và nếu có tai biến
thì việc chịu rủi ro cũng ngang nhau. Trong cơ hội và rủi ro ngang nhau đó, ai
nhạy bén nắm bắt được cơ hội thì trở nên giàu có, ai không nắm bắt được cơ hội thì
nghèo vẫn hoàn nghèo; ai biết lo xa đề phòng rủi ro người ấy giữ được thành
quả, ai không đề phòng được rủi ro người ấy có thể trắng tay. Để bảo đảm KTTT
vận hành đầy đủ, không thể không có nhà nước pháp quyền với hệ thống luật pháp
minh bạch xây dựng trên tinh thần pháp trị, ở đó mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Nhưng khi trong xã hội còn những người yếu thế, người bất hạnh không
thể tự mình vươn lên nắm bắt cơ hội,… thì cần có chính sách thích hợp để họ
không bị thiệt thòi, không bị bần cùng hóa.
Nhà
nước tư bản phương tây vẫn tỏ ra quan tâm tới các nhóm yếu thế thông qua chính
sách an sinh xã hội. Nhưng việc họ áp dụng mức thuế cao, vay nợ để thực hiện
“công bằng xã hội” xét đến cùng không dành cho các thành phần yếu thế bất hạnh
mà chủ yếu phục vụ tầng lớp trung lưu với mục tiêu sâu xa là thu hút phiếu bầu.
Điều này là kết quả tất yếu của nền dân chủ với thể chế đa nguyên, đa đảng luôn
bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, và các chính sách được ban hành thường là sự
thỏa hiệp giữa các nhóm đa số có thế lực, khó có thể đáp ứng lợi ích các nhóm
yếu thế, thậm chí còn xâm phạm lợi ích chính đáng của các nhóm này. Công bằng
xã hội chỉ là trên danh nghĩa, thực tế là nhà nước phình to ra song tình trạng
bất công vẫn diễn ra gay gắt.
KTTT
định hướng XHCN vẫn hội đủ các yếu tố của KTTT, nhưng có các thiết chế để bảo
vệ các nhóm yếu thế, tạo điều kiện cho họ vươn lên tiếp cận các cơ hội của thị
trường, giúp họ đối phó với các rủi ro nghiệt ngã mà tự họ không có khả năng
đối phó. Trong bối cảnh cụ thể ở nước ta, các nhóm yếu thế này chính là đông
đảo nhân dân lao động, cùng những người bất hạnh, các gia đình bị thiệt thòi do
phải hy sinh xương máu và của cải cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc, nông dân
ít ruộng đất, người nghèo, người lao động có thu nhập thấp... Và việc quan tâm
đến lợi ích của họ là thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Việc gì có
lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Trong
một thời gian dài (miền bắc sau năm 1954, cả nước từ năm 1975 đến giữa thập
niên 80 của thế kỷ trước) chúng ta áp dụng kinh tế kế hoạch hóa, và một số
người đã phê phán, coi đó là cơ chế kinh tế đã để lại một số di hại với quá
trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước khi phê phán lại cần nhớ rằng, kinh
tế kế hoạch hóa được áp dụng trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh xâm lược của
nước ngoài và cuộc cấm vận kinh tế tai ác kéo dài nhiều năm sau năm 1975; hơn
thế nữa, chính kinh tế kế hoạch hóa đó đã bảo đảm hậu cần cho thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và thắng lợi của các cuộc chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc ở biên giới phía bắc, biên giới tây nam, đồng thời duy trì được tiềm
lực của đất nước đủ sức vượt qua cấm vận, khủng hoảng để sau năm 1986 có thể
hồi sinh nhanh chóng. Phê phán kinh tế kế hoạch hóa phải đặt trong bối cảnh
lịch sử đó, nếu không sẽ không hiểu vì sao Đảng ta đã khởi xướng, tổ chức, lãnh
đạo công cuộc Đổi mới và Đổi mới từ đâu tới.
Đổi
mới không phải là một lý thuyết “nhập cảnh”, không phải do “sức ép” bên ngoài
mà là sự đáp ứng yêu cầu từ sự chuyển động nội tại của đất nước. Không phải ai
khác, chính những người cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc Đổi mới,
chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế KTTT định hướng XHCN. Không phải bắt đầu từ Nghị quyết Đại hội VI, mà từ
trước đó rất lâu, những mầm mống của KTTT đã được những người cộng sản chân
chính nuôi dưỡng, khuyến khích ngay trong “gọng kìm” kế hoạch hóa.
Chúng
tôi gọi “gọng kìm” kế hoạch hóa vì cơ chế tập trung quan liêu đã ăn sâu vào cấu
trúc xã hội, thành định chế, thành nếp nghĩ, muốn tháo bỏ không hề dễ dàng. Các
đảng viên cộng sản đã phải thực hiện “khoán chui”, phải “vượt rào” để thoát rào
cản về cơ chế. Giữa lúc đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc bị phê phán gay gắt do
thực hiện “khoán chui” ở Vĩnh Phúc, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đến thăm và động
viên ông (Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4/4/2017). Nhiều Bí thư Tỉnh ủy, được
sự hậu thuẫn của các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Trung ương Đảng, đã “vượt
rào” xóa ngăn sông cấm chợ, xóa bao cấp, bảo vệ cách làm ăn mới ở cơ sở, mở
đường cho sự vận hành của thị trường theo quy luật của nó. Nghị quyết Đại hội
VI đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong toàn Đảng, hướng kinh tế cả nước vận
hành theo cơ chế thị trường.
Như
vậy, Đảng ta không khư khư “công thức” của CNXH theo truyền thống quốc tế, mà
thực hiện CNXH theo Tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu: “Làm cho người nghèo thì
đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” với phương châm
“Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh”.
Để
bảo đảm định hướng XHCN đạt tới mục tiêu, trong nền kinh tế nhiều thành phần
của nước ta, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Có không ít ý kiến bài
bác hoặc tranh cãi tư biện về sự chủ đạo này. Trong khi về đường lối và trong
thực tiễn, chúng ta có một lộ trình giảm dần số lượng doanh nghiệp nhà nước
bằng nhiều hình thức thích hợp, như: cổ phần hóa và giao, khoán, bán, cho
thuê.
Thực
tế số doanh nghiệp nhà nước đã giảm rất mạnh theo lộ trình và theo các hình
thức đó. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là chỉ giữ lại 100% vốn Nhà nước tại
một số ngành kinh tế trọng yếu và những ngành mà tư nhân chưa đủ khả năng tham
gia, như doanh nghiệp công ích, với mục đích bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc
gia, an ninh kinh tế và giữ vai trò điều tiết để ngăn ngừa bất ổn, khủng hoảng
kinh tế, cũng là để bảo vệ sự an lành môi trường làm ăn, cuộc sống của mọi
người dân. Đó là ý nghĩa của vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước.
Vai
trò này hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế. Phương châm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt
động kinh tế là: Nhà nước chỉ làm những gì người dân không làm được, nói cách
khác, Nhà nước đã và sẽ lùi dần khỏi các lĩnh vực mà người dân và các thành phần
kinh tế khác có thể làm. Việc cổ phần hóa một số ngành có liên quan đến an ninh
quốc gia như hàng không, an ninh năng lượng như xăng dầu,… mới đây là nằm trong
xu hướng đó.
Yếu
tố quan trọng nhất của định hướng XHCN trong KTTT của chúng ta là vai trò lãnh đạo
của Đảng, vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đảng đại biểu cho lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, Đảng không có lợi
ích của riêng mình. Bởi vậy, sự lãnh đạo của Đảng là sự bảo đảm để loại trừ các
nhóm lợi ích chi phối quá trình xây dựng và thực thi pháp luật, đó là sự bảo
đảm cho sự hiện hữu của tinh thần pháp trị.
Trong
Nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta, các đạo luật được ban hành không phải là
kết quả của quá trình vận động và thỏa hiệp giữa các nhóm lợi ích chi phối cơ
quan lập pháp, mà xuất phát từ nhu cầu phát triển đất nước và lợi ích phổ quát
của người dân, trong đó có lợi ích của các nhóm yếu thế, nghĩa là không có
chính sách hoặc đạo luật nào phục vụ cho lợi ích của người giàu mà đánh mất cơ
hội của người nghèo.
Thực
tế cho thấy hơn 30 năm vận hành của KTTT định hướng XHCN đã tạo ra sự phát
triển ngoạn mục của đất nước. Công cuộc Đổi mới nhanh chóng đưa Việt Nam thoát
khỏi khủng hoảng, duy trì tốc độ tăng trưởng vào hàng cao trên thế giới. Năm
1988, quy mô GDP chưa tới 5,5 tỷ USD, GDP đầu người chỉ đạt 86 USD; đến năm
2016, GDP đã đạt 205,32 tỷ USD, tăng hơn 37 lần, GDP đầu người đạt 2.215 USD,
tăng gần 27 lần so với năm 1988, rút ngắn đáng kể khoảng cách thu nhập so với
các nước trong khu vực.
Theo
dữ liệu so sánh của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1990, GDP bình quân đầu người
của Thái-lan là 1.508 USD (tính tròn), con số tương ứng của Việt Nam là 98 USD,
khoảng cách chênh lệch tới 15,3 lần. Đến năm 2015, GDP bình quân đầu người của
Thái-lan lên 5.815 USD, con số tương ứng của Việt Nam là 2.111 USD, khoảng cách
rút ngắn còn 2,7 lần. Với Phi-li-pin năm 1990, GDP bình quân đầu người cao gấp
7,3 lần so với Việt Nam (715 USD/98 USD), khoảng cách này đến năm 2015 còn chưa
tới 1,4 lần (2.904 USD/2.111 USD). Với Ấn Độ năm 1990, GDP bình quân đầu người
cao gấp 3,8 lần so với Việt Nam (375 USD/98 USD), đến năm 2015 Việt Nam đã vượt
Ấn Độ (2.111 USD/1.593 USD). Thành tựu ngoạn mục nhất là công cuộc xóa đói giảm
nghèo: năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước chiếm tới 58%, đến cuối năm 2016
đã giảm chỉ còn 8,38% (theo chuẩn nghèo mới). Theo dữ liệu so sánh của Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB), tỷ lệ người nghèo so với dân số của Việt Nam năm
2015 ở mức 9,8%, thấp xa so với con số tương ứng của Phi-li-pin (25,2%), Ấn Độ
(21,9%), và thấp hơn cả Thái-lan (12,6%), In-đô-nê-xi-a (11,3%).
Trên
đây không phải là những con số tuyên truyền của Việt Nam về tính ưu việt của
KTTT định hướng XHCN, mà là sự ghi nhận khách quan của cộng đồng quốc tế. Dĩ
nhiên, KTTT định hướng XHCN của Việt Nam còn nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn
thiện để thị trường có thể vận hành nhịp nhàng, đồng bộ với sự lựa chọn con
đường phát triển, từ đó thúc đẩy nhanh hơn quá trình “người nghèo thì đủ ăn,
người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” như mong muốn của Bác
Hồ. Vì vậy, việc trao đổi về thể chế KTTT định hướng XHCN là cần thiết, thậm
chí cần có những tranh luận, phản biện để làm sáng rõ những vấn đề về lý luận,
nhưng nếu không xuất phát từ đặc điểm lịch sử và thực tiễn của Việt Nam, thì mọi
sự trao đổi, tranh luận, phản biện đều sa vào tư biện, không hữu ích cho cuộc
sống của người dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cho quá
trình phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
Trương
Minh Tuấn (theo báo Nhân dân)
SỨC THUYẾT PHỤC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Reviewed by Sân Đình
on
10:29
Rating:

1 nhận xét:
Hội nghị Trung ương XII vừa thống nhất Nghị quyết, khẳng định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sáng tạo mới của Đảng ta về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.các thành tựu phát triển đất nước trong các năm qua đã chứng minh thể chế kinh tế của chúng ta là đúng đắn, là phù hợp với mục đích của cách mạng Việt Nam, phù hợp với con đường đã được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn
Đăng nhận xét