VỀ CHÍNH PHỦ "YÊU NƯỚC" CỦA TRẦN TRỌNG KIM
Tạp chí
Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 481, tháng 3/2017,
đăng bài “Những hoạt động của Chính phủ Trần Trọng Kim trong cơn biến động của
lịch sử (17/4 đến 7/8/1945)” của Nguyễn Gia Kiệm.
Tác giả
viết: “trong thời gian ngắn hoạt động của mình, chính phủ Trần Trọng Kim đã làm
một số việc vừa mang tính chất cấp bách (thu hồi hệ thống nền hành chính của
thực dân Pháp, cứu đói, thả tù chính trị…). Tuy nhiên thực lực của chính phủ
không có nên thành quả rất hạn chế”.
Qua bài
viết của ông Kiệm thì chính phủ Trần Trọng Kim đã hết lòng phục vụ nhân dân,
đất nước. Và “ông Trần Trọng Kim không hề có ảo tưởng về phát xít Nhật”…
Rất tiếc,
thực tế lịch sử không phải như vậy mà là ngược lại.
Trước
hết, nói về việc cứu đói. Khi chính phủ Trần Trọng Kim mới thành lập ngày
17-4-1945, báo Ngày Nay ở Hà Nội đã cổ vũ cho chính phủ ấy, nhưng đến tháng 6,
chính phủ Trần Trọng Kim đã không làm được điều mình hứa hẹn, báo Ngày Nay
không giấu được sự bất lực hoàn toàn của chính phủ, viết:
“Chúng
tôi nhận thấy ai ai cũng thất vọng và chán nản, vì sau hai tháng hô hào và tốn
bao giấy mực, dân đói miền Bắc cũng chưa thấy một bao gạo nào ở Nam đưa ra. Lời
tuyên bố của thủ tướng còn vang vọng bên tai ta: “Cần nhất là phải tiếp tế cho
dân đói miền Bắc” mà tới nay việc làm vẫn chưa đi theo lời nói; tuy rằng gạo
miền Nam vẫn chất đầy trong các kho, các nhà máy, tuy rằng giấy bạc vẫn nằm
từng xấp dày trong các két sắt của nhà tư sản Việt Nam, tuy rằng nội các vẫn có
một bộ tiếp tế và một bộ tài chính:
“Lẽ dĩ
nhiên, nguyên nhân trận chết đói năm 45 chủ yếu không phải là do chính phủ Trần
Trọng Kim mà là do chế độ thực dân, là chính sách tàn bạo của Pháp – Nhật. Sự
bất lực của chính phủ Trần Trọng Kim phần lớn là do tính chất bù nhìn của nó.
Nó không thể bớt chỗ nào thừa cho chỗ không có. Nó không thể chống nạn đầu cơ ở
miền Bắc lúc ấy vẫn còn gạo trong các kho của quân phiệt Nhật. Nhật tích trữ
lương thực để nuôi quân. Từ 9-3 đến giữa tháng 6, việc thu thóc tạ vẫn được thi
hành trong lúc hàng chục vạn đồng bào ta chết rũ dọc đường xó chợ. Chính phủ
Trần Trọng Kim đâu dám đụng đến việc thu thóc tạ, càng không dám đụng đến kho
thóc. Chính phủ đã cam đoan với Nhật là tiếp tế cho Nhật bằng hay hơn Pháp, để
xứng đáng với cái độc lập mà Nhật ban cho!
Cả chính
phủ Trần Trọng Kim và Nhật đều bắt buộc mọi sự vận chuyển thóc gạo từ Nam ra
Bắc đều phải qua “Ủy ban thóc gạo” ở Sài Gòn mà ủy ban này do công ty Nhật nắm.
Khi tải ra đến Bắc thì phải gom gạo cho công ty thóc gạo Bắc kỳ 75% số lượng,
công ty này lo bảo đảm trước hết lương thực cho quân Nhật, còn lại mới bán cho
dân (Tổng tập Trần Văn Giàu – 2008).
Đạo dụ
của chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13-6-1945, nhắm trực tiếp chống phong trào
cách mạng, chống phong trào Việt Minh đang hô hào nhân dân ào đến mở kho thóc
của Nhật để tự cứu đói. Theo đạo dụ đó, ai phạm việc phá hoại cầu cống, đường
sá, cướp phá hoặc làm hư hại kho ngũ cốc, đồ ăn, gạo, đều bị kết án từ hình!
Thử hỏi,
lúc bấy giờ ai phá hoại giao thông, làm trở ngại sự điều động quân Nhật, ai chủ
trương và dẫn đầu nhân dân đang đói đến phá kho thóc Nhật để chia cho dân đói.
Chỉ có Việt Minh hô hào dân đói tự cứu. Chẳng lẽ những việc làm trên của chính
phủ Trần Trọng Kim là vì nhân dân, là yêu nước ư?
Chính phủ "dân tộc" của những ngài Tây học những
ngày dân chết đói đầy đường.
Về việc
“ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị” sự thực như thế nào?
Đạo dụ
ngày 17-5-1945 quy định chỉ thả những chính trị phạm không phải cộng sản, còn
những người bị xử tội cộng sản thì không kể tới. Trên thực tế, sau ngày
9-3-1945, có một số rất ít tù cộng sản được ra khỏi nhà lao. Đó là do những
cuộc đấu tranh mạnh mẽ tại một số nhà tù buộc địch phải thả một ít người. Một
số tù nhân lợi dụng sơ hở của địch trong lúc giao thời đã vượt ngục chứ không
phải do “được thả”. Điều rõ ràng là hàng nghìn tù nhân “cộng sản” vẫn bị giam
giữ ở các nhà tù cho đến ngày Nhật thua trận. Người tù cộng sản nổi tiếng Tôn
Đức Thắng và các tù nhân bị giam ở Côn Lôn chỉ được tự do sau khi cách mạng
tháng Tám thành công.
Về vấn đề
thu hồi chủ quyền ở Nam bộ và các nhượng địa như Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn, chính
phủ Trần Trọng Kim cũng thất bại hoàn toàn. Báo Ngày Nay từng đặt hy vọng vào
chính phủ Trần Trọng Kim khi chính phủ này vừa mới thành lập thì sau một tháng
rưỡi, ngày 2-6-1945, đã không giấu được nỗi nghi ngờ thất vọng, viết trong bài
“Cần phải minh bạch” như sau:
“Đã ba
tháng qua từ ngày đảo chính (9-3) mà tình thế vẫn còn ở trong vòng tạm bợ,
không dứt khoát, vẫn chưa ký một hiệp ước giữa hai nước Nhật – Việt để định rõ
quyền hạn, nhiệm vụ của hai chính phủ về đất đai, về tổ chức xứ này…”.
Thì ra, ba
tháng sau khi đảo chính, ngay cả việc như công nhận nền độc lập Việt Nam, ký
hiệp ước với chính phủ Huế, đặt đại sứ để tiệc tùng và ọ ọe với nhau cho có
hình thức độc lập, Nhật cũng chưa chịu làm và sẽ không bao giờ làm cho đến khi
chúng bại trận.
Bắc kỳ và
Trung kỳ chỉ có sát nhập ở hình thức là Huế cử một ông khâm sai đại thần ở Hà
Nội như hồi sau năm 1884 với người Pháp. Khâm sai đại thần mang áo mão triều
đình và lãnh mệnh ở khâm sứ Nhật và quân đội Nhật ở Hà Nội. Báo Thanh Nghị,
từng làm trạng sư hùng hồn cho chính phủ Trần Trọng Kim, ngay số 111, đã phàn
nàn rằng: “Đối với dân chúng miền Bắc, nội các hành động như một bóng ma”.
Nam kỳ
thì Nhật giữ làm thuộc địa. Mãi đến vài ngày trước khi Nhật đầu hàng, Nhật mới
chịu nhả Nam kỳ ra. Ông khâm sai đại thần Nguyễn Văn Sâm được chỉ định lãnh
chức, lót tót về Sài Gòn thì cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám sắp nổ ra.
Về hoạt
động của các đảng phái chính trị, ông Kiệm viết: “Không thấy tài liệu nào nói
chính phủ Trần Trọng Kim cho phép các đảng phái chính trị hoạt động. Nhưng
trong thời gian hoạt động của chính phủ Trần Trọng Kim, hoạt động của các tổ
chức chính trị rất đa dạng, kể cả hoạt động rầm rộ của Mặt trận Việt Minh mà
đằng sau do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Điều này chứng tỏ chính phủ không cấm các
đảng phái hoạt động”…
“Hoạt
động rầm rộ của Mặt trận Việt Minh” đâu phải do chính phủ không cấm các đảng
phái hoạt động!
Như trên
đã nói, đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13-6 nhằm trực tiếp chống
phong trào Việt Minh, trong đó có điều khoản: “Cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10
người”. Sắc lệnh ngày 15-7, cấm các công đoàn hoạt động chính trị. Đạo dụ ngày
30-5 về xuất bản, bắt buộc:
“Từ nay
những báo chí, sách in, tuồng hát, vở kịch, bài diễn thuyết, chương trình, yết
thị… phải trình lên Tòa kiểm duyệt, ai không tuân sẽ bị nghiêm trị”.
Nghị định
ngày 28-7-1945 lệnh tất cả các báo chí, sách đã được xuất bản trước ngày đó đều
phải xin phép lại ở Bộ Nội vụ trong thời gian hai tháng. Phải gạt bỏ sách báo
không ủng hộ chính phủ.
Một việc
cực kỳ quan trọng đối với một chính phủ mới thành lập là Tuyên cáo trước quốc
dân về đường lối chính trị của mình. Ông Kiệm đã không đề cập đến. Bởi đây là
vấn đề cốt lõi thể hiện rõ ràng đường lối của chính phủ đã hết lòng phục vụ
ông chủ phát xít Nhật, không thể lẩn tránh được. Ông Trần Trọng Kim không phải
là người không hề có ảo tưởng về phát xít Nhật như ông Kiệm nhận xét.
Bản Tuyên
cáo của nội các Trần Trọng Kim đã vạch ra một chương trình hoạt động khá đầy
đủ, đồng thời hô hào: “quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn
nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bản trong sự kiến thiết nền
Đại Đông Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có thành thì sự độc lập
của nước ta mới không phải là giấc mộng thoáng qua”.
Ông Phạm
Khắc Hòe nguyên Tổng lý Ngự tiền văn phòng của triều Nguyễn nói về bản Tuyên
cáo: “Rõ ràng là Trần Trọng Kim đã hạ quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật đến
cùng…”.
Bản Tuyên
chiếu của nhà vua và Tuyên cáo của Chính phủ Trần Trọng Kim được đăng lên báo
đồng thời với tin phát xít Đức đầu hàng không điều kiện làm cho nhân dân bàn
tán xôn xao, vì Đức với Nhật là đồng minh, Đức thua, Nhật khó tránh khỏi thất
bại, cho nên Trần Trọng Kim lại phải tuyên bố để trấn an dư luận “Việc nước Đức
đầu hàng không hại gì đến sự liên lạc mật thiết giữa hai nước Nhật và Việt Nam…
Sự bại
trận ấy không thể giảm bớt lòng chúng ta kiên quyết giúp Nhật Bản đeo đuổi
cuộc chiến đấu cho đến khi toàn thắng để kiến thiết vùng Đại Đông Á… ta chỉ
phải giữ vững cuộc trị an trong nước và chịu những hy sinh cần thiết để cho
quân đội Nhật Bản được chúng ta tận tâm giúp đỡ về mặt tinh thần và vật chất,
nền độc lập của chúng ta có như thế mới thật vững bền” (Hồi ký Phạm Khắc Hòe).
Ấy thế mà
trong quyển hồi ký “Một cơn gió bụi” của ông ta xuất bản ở Sài Gòn năm 1969,
Trần Trọng Kim viết: “Ngay lúc đầu trong lời tuyên bố của Chính phủ, tôi đã
chỉ nói những công việc quốc dân phải lo để gây dựng lại nền tự chủ của nước
nhà mà thôi, chớ không nói gì về việc chiến tranh của nước Nhật Bản (xem phụ
lục số 1) với các nước Đồng minh, chú ý muốn tránh sự người Nhật có thể lôi kéo
người mình vào cuộc chiến tranh của họ”.
Để cho
khớp lời nói dối ấy, nhà sử học Trần Trọng Kim đã trắng trợn cắt bỏ hẳn trong
bản phụ lục số 1 ở cuối quyển hồi ký của ông ta cả đoạn ông hô hào: “Quốc dân
phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thật hợp tác
với nước Đại Nhật Bản…”.
Cứ theo
ông Nguyễn Gia Kiệm, thì ông Trần Trọng Kim không có tham vọng chính trị gì.
Bởi: “Sau khi triều đình lấy lại được Nam kỳ, khi trở về Huế, Trần Trọng Kim đã
xin từ chức: “Việc lấy lại Nam kỳ đã xong, tôi (Ô. Kim) vào tâu vua Bảo Đại,
xin cho tôi từ chức. Ngài nói: Ông đang làm được việc sao lại xin thôi, mà ông
thôi, lấy ai thay”…
Có phải
đó là lời nói “tự đáy lòng” ông Trần Trọng Kim hay không, xin mời đọc một số
đoạn hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc” của ông Phạm Khắc Hòe về
các cuộc họp của chính phủ Trần Trọng Kim.
“Trong
những ngày đầu tháng 8-1945, phong trào cách mạng chống phát xít Nhật và đòi
đánh đổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim dâng lên rất cao. Trong cuộc họp của
chính phủ Trần Trọng Kim ngày 3-8, ông Hồ Tá Khanh – Bộ trưởng Bộ Kinh tế, đứng
dậy nói: “Phong trào Việt Minh đang ngày càng mạnh, cả nội các chúng ta nên rút
lui để cho Việt Minh lên làm việc may ra họ cứu được đất nước. Không ai rút
lui, một mình tôi, tôi cũng xin rút…”.
Ông Trần
Trọng Kim bực tức nói:
- Khi vui
thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn ào ào chạy ra! Trốn trách nhiệm, chạy dài như
thế mà không xấu hổ à?
Ông Hồ Tá
Khanh nói tiếp: “Trách nhiệm của chúng ta lúc này là rút lui, chứ không phải là
bám lấy! Bám lấy mới xấu hổ!”.
Ông
Nguyễn Hữu Thí, Bộ trưởng Bộ Tiếp tế, vỗ tay rất to: “Hoan hô ông bạn Hồ Tá
Khanh!”.
Không khí
buổi họp trở nên rất căng thẳng.
Ngày
15-8, Nhật đầu hàng Đồng minh – chính phủ Trần Trọng Kim ở sát bờ vực tan rã.
Ngày
17-8, chính phủ họp. Ông Trần Đình Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, phát biểu: “Toàn
dân thắt chặt đoàn kết chung quanh tổ chức mạnh nhất, hăng hái nhất, tức là
Việt Minh, làm cho nước ngoài không thể giở thủ đoạn “chia để trị” ra được nữa.
Vậy, tôi đề nghị chúng ta rút lui ngay, nhường hẳn quyền bính cho Việt Minh.
Theo tôi nghĩ thì cả Hoàng đế cũng nên rút lui”.
Câu nói
này làm cho Trần Trọng Kim nhảy người lên, nghiêm khắc lên án Trần Đình Nam dám
đòi nhà vua bỏ ngôi báu. Một cuộc tranh luận sôi nổi dấy lên.
Các bộ
trưởng có thiện chí đều xin từ chức. Chính phủ Trần Trọng Kim không thể tồn tại
được. Ông Trần Trọng Kim có muốn duy trì nó cũng không được. Ông đành ấm ức
chấp nhận thực tế phũ phàng chứ không phải tự nguyện nhường quyền cho Việt
Minh.
Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập sau cuộc cách mạng tháng Tám 1945 là
kết quả của cuộc đấu tranh lâu đài, gian khổ, đầy hy sinh của nhân dân Việt Nam
chống đế quốc Pháp, Nhật và tay sai, chứ đâu phải là một chính phủ chuyển tiếp
êm thấm. Càng không phải là nhờ thiện chí của ông Thủ tướng Trần Trọng Kim!”.
Cũng
trong hồi ký nói trên, ông Phạm Khắc Hòe viết:
“Bộ mặt
Việt gian phản quốc của Trần Trọng Kim ngày nay chúng tôi mới thấy thật rõ,
nhưng đã được những người cộng sản vạch ra một năm trước khi nội các Trần Trọng
Kim ra đời.
Nhà cách
mạng Trường Chinh, trong báo Cờ Giải phóng số ra ngày 18-4-1944 đã viết: “Bọn
Việt gian thân Nhật bảo: thì đồng bào ta cứ hy sinh cho Nhật miễn sao cho cuộc
chiến tranh Đại Á của Nhật được toàn thắng thì nước ta sẽ được độc lập tự do.
Xảo quyệt thay giọng lưỡi ấy. Có đời thuở nào hy sinh cho bọn đế quốc đang cướp
nước mình lại được độc lập tự do bao giờ. Giá bọn Việt gian thân Nhật nói
trắng ngay rằng đồng bào hãy chịu khó hy sinh tính mạng, tài sản để cho một
nhóm Việt gian thân Nhật được mũ cao áo dài thì đúng hơn”.
Nhà cách
mạng, nhà sử học Trần Văn Giàu đã nói về thái độ Đảng và Mặt trận đối với chính
phủ Trần Trọng Kim như sau:
“Ta quả
quyết từ đầu rằng chính phủ Trần Trọng Kim chỉ có thể là bù nhìn của Nhật mặc
dầu là có thể có ông bộ trưởng này hay ông bộ trưởng nọ không muốn làm bù nhìn
cho ai hết. Ta quả quyết rằng một chính phủ thành lập sau đảo chính Nhật tất
phải có nhiệm vụ ủng hộ cuộc chiến tranh của Nhật, cho nên, đã chống Nhật, cứu
nước thì phải chống chính phủ Trần Trọng Kim”.
Trong báo
Cờ giải phóng (số13), bài Tân Trào, có nói rõ:
“Nội các
Trần Trọng Kim không có những tên Việt gian nổi tiếng… ở trong. Giặc Nhật không
dám cho những tên chó sản quá lộ lên “cầm quyền”, e mất tín nhiệm với dân.
Nhưng dù
giặc Nhật có giở trò gì chúng cũng không lừa phỉnh được dân ta. Rồi đây, nội
các Trần Trọng Kim có làm được công chuyện gì đáng kể không? Nhất định không!
Thân phận bù nhìn, nó chỉ có thể giữ việc bù nhìn. Phương châm của nó là: Hứa
hẹn thật nhiều, thực hành rất ít hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của
nó là bọc nhung vào ách Nhật, đầu độc đồng bào. Thái độ của nó là: Ca ngợi giặc
Nhật, vào hùa với giặc, áp bức bóc lột nhân dân.
Cho nên,
thấy Nhật thu thóc, nó câm miệng. Thấy Nhật tăng thuế, nó gật đầu. Thấy Nhật
bắn giết, nó làm thinh. Giúp Nhật bắt lính, bắt phu, nó hô hào đi lính, đi phu
cho Nhật”.
Chủ
trương của Đảng Cộng sản và Việt Minh là không ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim,
không thỏa hiệp với chúng. Chủ trương của Đảng Cộng sản là vạch mặt chính phủ
Trần Trọng Kim, đánh đổ nó, trong lúc đó thì ta ngó thấy rằng kẻ thù chính là
quân phiệt Nhật, bố đẻ của chính phủ Trần Trọng Kim”… (Tổng tập Trần Văn Giàu).
Nhà văn
hóa Nguyễn Khắc Viện viết:
“Chính
phủ Trần Trọng Kim tỏ ra bất lực hoàn toàn trong việc giải quyết những vấn đề
lúc đó: nạn đói tiếp tục hoành hành, không một thể chế mới nào được ban hành,
việc ân xá tù chính trị không được áp dụng cho những người “cộng sản”, tức là
9/10 người bị giam lúc đó… Chính phủ Trần Trọng Kim tự vạch mặt, đơn giản họ
vừa là tay sai của người Nhật (Việt Nam một thiên lịch sử – NXB Khoa học Xã
hội, 2007).
Nói chính
phủ Trần Trọng Kim là bù nhìn, là tay sai của Nhật không phải tất cả các vị bộ
trưởng là bù nhìn, là tay sai như nhà sử học Trần Văn Giàu đã viết ở trên.
Nhiều vị là người yêu nước muốn đem tài năng ra phục vụ đất nước nhưng không
làm được trong gọng kìm của ông chủ Nhật. Sau khi nước nhà độc lập, họ ủng hộ
chế độ dân chủ cộng hòa. Có người là bộ trưởng trong chính phủ cách mạng.
Việc chọn
ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng đã được người Nhật chuẩn bị từ lâu, không phải
là chuyện vơ bèo vạt tép, tùy tiện, gặp đâu hay đó. Ông Trần Trọng Kim “đi” với
Nhật cũng là việc tự nguyện có tính toán từ trước khi Nhật đảo chính lật Pháp
vài năm. Chính ông Trần Trọng Kim đã kể rõ quá trình ấy trong cuốn hồi ký “Một
cơn gió bụi” do chính ông Kim viết, xuất bản ở Sài Gòn năm 1969:
“… Sáng
sớm hôm sau (28-10-1943), tôi đang trong buồng thấy mấy người hiến binh Nhật
đem xe hơi đến bảo đón tôi về khách sạn của nhà binh Nhật. Nghe hai tiếng có
lệnh, biết là mình không sao từ chối được nữa… Thôi, đành theo số phận, tôi
lên xe đi đến khách sạn của Nhật. Đến 5 giờ chiều hôm ấy, thấy hiến binh Nhật
đem ông Dương Bá Trạc cũng vào đây…
Sau một
lúc chuyện trò về tình cảm của nhau, ông Dương nói: “Bây giờ chúng ta lâm vào
tình cảnh này thật là khó quá. Dù rồi ra chúng ta có về nhà nữa, người Pháp
cũng chẳng để yên. Chi bằng ta nói với hiến binh Nhật cho chúng ta ra ngoài để
gặp ông Cường Để, ta sẽ bàn cách làm việc gì có ích lợi cho nước nhà…”.
Tôi nghe
ông Dương nói cũng bùi tai, liền bàn với nhau viết thư xin người Nhật giúp
chúng tôi ra ngoài. Cách mấy hôm, viên thiếu tá hiến binh Nhật ở Hà Nội đến
thăm chúng tôi và nói: “Việc các ông xin ra ngoài là rất phải, để tôi vào Sài
Gòn hỏi ý kiến Tư lệnh bộ trong ấy, lệnh trên định thế nào, tôi sẽ nói cho các
ông biết”.
Chúng tôi
đợi khách sạn gần ba tuần lễ, viên thiếu tá mới trở về và đến nói cho chúng tôi
hay các ông đi đâu bây giờ cũng không tiện, chỉ có ra Chiêu Nam Đảo (Singapore)
là yên ổn hơn cả. Các ông ra đấy rồi ông Cường Để cùng các người khác nữa sẽ
họp nhau làm việc, rất là thuận tiện… Chúng tôi nhận đi. Chúng tôi đi xe lửa
với một toán lính Nhật vào Sài Gòn. Trước hết đến nhà của hiến binh Nhật mất 12
ngày, rồi sau ở nhà của hiệu Đại Nam Công ty 19 ngày. Đến ngày mồng 1 tháng
giêng năm 1944 mới xuống tàu thủy sang Chiêu Nam Đảo…”.
Ở Chiêu
Nam Đảo ăn uống cực khổ, thiếu thuốc men, hai ông Trạc và Kim đều ốm. Hai ông
thấy “Chiêu Nam Đảo là nơi chiến địa, lương thực cạn khô, mà ở bên Xiêm (Thái
Lan) thì thóc gạo nhiều và nhiều người Việt Nam ở bên ấy”. Hai ông “bàn với
nhau xin người Nhật cho về Băng Cốc để dẫu có xảy ra việc bất ngờ còn có chỗ
lui…”.
Sau đó,
ông Dương Bá Trạc ốm nặng mất ở Chiêu Nam Đảo, còn ông Trần Trọng Kim được Nhật
đưa sang Băng Cốc vào cuối tháng 1-1945 cùng với một số người khác.
Đến ngày
10-3-1945, ông Kim được tin “Nhật đã đánh quân Pháp ở Đông Dương”, ông chỉ
“mong chóng được về nhà cho yên phận mà thôi”… “chợt đến ngày 29-3 có một viên
trung úy (Nhật) ở Sài Gòn sang Băng Cốc, đến bảo chúng tôi rằng có tàu bay sang
đón về. Sau hỏi ra thì chỉ có một mình tôi về…”.
Ở Sài Gòn
mấy ngày, “nhà chức trách Nhật” sắp xếp đưa ông Kim ra Huế để yết kiến vua Bảo
Đại. Sáng 5-4, ông Kim đến Huế đã được ông U-sa-bê lãnh sự Nhật ra đón. Sau mấy
phút, chính ông U-sa-bê báo tin cho ông Kim biết là gia đình ông ở Hà Nội đã
vào đến Huế.
Quan Ngự
tiền văn phòng Tổng lý của triều đình Phạm Khắc Hòe được lệnh sắp xếp nhà ở
cho ông Kim và ngày giờ cho ông Kim gặp nhà vua.
Ngày 7-4,
ông Kim yết kiến vua Bảo Đại. Ông Bảo Đại yêu cầu ông Trần Trọng Kim đứng ra
lập nội các (chính phủ). Theo hồi ký của ông Phạm Khắc Hòe thì mấy ngày sau ông
Trần Trọng Kim “vui vẻ nhận trọng trách, thành lập chính phủ… Ngày 17-4, trong
khi Bảo Đại đang tiếp chuyện với tối cao cố vấn Yokoyama thì Trần Trọng Kim vào
tâu lên nhà vua danh sách chính phủ mới… Bảo Đại tán thành toàn bộ danh sách”.
Việc ông
Trần Trọng Kim làm thủ tướng chính phủ do Nhật lập ra để phục vụ cho chúng đã
quá rõ ràng. Thái độ chính trị của ông Kim về sau này càng chứng tỏ lòng yêu
nước của ông đã phát triển ra sao.
Sau khi
chính phủ ông sụp đổ, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đối xử với ông cực
kỳ khoan dung hiếm thấy ở một cuộc cách mạng nào. Ông được sống yên ổn tự do ở
nhà. Chính phủ còn cấp lương cho ông ăn. Chính ông đã viết trong hồi ký Một cơn
gió bụi: “Bây giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi
1.600 đồng tiền lương quá nửa tháng 8 tôi mới có tiền chi tiêu”. Trong lúc quỹ
chính phủ chỉ có 2 triệu đồng bạc Đông Dương và nhân dân đang bị nạn đói, món
tiền 1.600 đồng cấp cho ông là không nhỏ, có thể mua được hai tấn gạo.
Ông ở Huế
ba tháng, không hề bị làm phiền gì cả. “Khi hứng thú có thể đem Đường thi ra
dịch”… Đến giữa tháng 11-1945, ông trở về nhà ở Hà Nội. Tháng 6-1946, khi quân
Quốc đảng Tàu (sang tước khí giới Nhật) phải rút về nước, ông bám theo, sang
Trung Quốc tìm gặp ông Bảo Đại (đã đào ngũ) đang ở Hồng Kông. Ông cùng Bảo Đại
bàn mưu tính kế, có cả Cousseau, trùm mật thám Pháp tham dự. Ông Bảo Đại gợi ý
ông về Sài Gòn trước, cho ông 500 đô la. Cousseau thì “giúp đỡ” thu xếp giấy
tờ, phương tiện. Đầu tháng 2-1947, ông về Sài Gòn ở cùng vợ con. Ở đây ông
thường xuyên tiếp xúc với bọn cầm đầu thực dân Pháp ở Đông Dương và chờ đợi
chúng sử dụng.
Ông Phạm
Khắc Hòe bị Pháp bắt ở Hỏa Lò – Hà Nội, rồi đưa vào giam lỏng ở Đà Lạt để dụ
dỗ, thuyết phục ông “cộng tác” nhưng ông Hòe kiên quyết từ chối. Pháp đưa ông
trở ra Hà Nội. Từ Đà Lạt xuống Sài Gòn, ông Hòe ghé thăm ông Kim. Ông Kim nói
với ông Hòe: “Tôi ở đây chán lắm rồi, không muốn làm gì nữa cả”. Ông Hòe hỏi:
“Sao cụ lại chán đời thế?”. “Vì bọn Tây ở đây đểu lắm. Thôi, dụng chi tắc
hành, xả chi tắc tàng (dùng thì ra làm, bỏ thì ở ẩn), tôi thấy tuân theo lời
dạy của Đức Thánh (Khổng Tử) là tốt hơn cả”.
Ông Hòe
viết trong hồi ký: “Câu nói ấy làm cho chút ít sự kính nể của tôi đối với ông
già Trần Trọng Kim tan biến hết!”.
Làm tay
sai cho Nhật. Nhật bại trận, tìm dựa thực dân Pháp, sống ở trong hang ổ của bọn
xâm lược, mong chúng dùng giữa lúc nhân dân ta kháng chiến để giữ độc lập.
Pháp bỏ không dùng, đành phải ở ẩn, lấy lời Khổng Tử để tự an ủi.
Lòng yêu
nước chân thành, đấu tranh giành độc lập của ông Trần Trọng Kim mà đến nay vẫn
còn có người ca ngợi là vậy đó!
Về chính
phủ bù nhìn Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên để phục vụ cho lợi ích của phát xít
Nhật, từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay đã có biết bao tài liệu in
trên sách, báo, với những chứng cứ lịch sử rất rõ ràng nhưng vẫn có người đề
cao “công lao” của Trần Trọng Kim bất chấp sự thật. Một số người cố tình viết
sai sự thật, đổi trắng thay đen, tôn vinh kẻ bán nước, đầu hàng giặc cướp
nước, phục vụ quân xâm lược thành người yêu nước như Phan Thanh Giản, Trương
Vĩnh Ký, Hoàng Cao Khải… Đến nỗi chuyện Gia Long cõng rắn cắn gà nhà đã rõ
ràng trong lịch sử, mà ông Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử đã lên tiếng công kích
“nói Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà là quan điểm cực đoan”! (Văn nghệ TP. Hồ
Chí Minh dẫn lại trên số báo ngày 2-3-2017).
Với luận
điệu “Xác lập quan điểm mới cho những khoảng trống lịch sử” họ tung hoành bằng
các công cụ “lịch sử” họ có trong tay. Chuyện Trần Trọng Kim, mới đây thôi, có
xa xôi gì mà họ còn xuyên tạc, bóp méo sự thật, huống chi những chuyện đã qua
nhiều thế kỷ. Họ đề cao Phạm Quỳnh – một người hết lòng tận tụy phục vụ bọn xâm
lược Pháp – là “người yêu nước đến tận cùng” trên sóng truyền hình VTV6 đầu
tháng 2-2017. Nguy vậy thay!
VỀ CHÍNH PHỦ "YÊU NƯỚC" CỦA TRẦN TRỌNG KIM
Reviewed by Sân Đình
on
06:07
Rating:

4 nhận xét:
Về chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên để phục vụ cho lợi ích của phát xít Nhật, từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay đã có biết bao tài liệu in trên sách, báo, với những chứng cứ lịch sử rất rõ ràng nhưng vẫn có người đề cao “công lao” của Trần Trọng Kim bất chấp sự thật. Một số người cố tình viết sai sự thật, đổi trắng thay đen, tôn vinh kẻ bán nước, đầu hàng giặc cướp nước, phục vụ quân xâm lược thành người yêu nước như Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, Hoàng Cao Khải… Đến nỗi chuyện Gia Long cõng rắn cắn gà nhà đã rõ ràng trong lịch sử, mà ông Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử đã lên tiếng công kích “nói Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà là quan điểm cực đoan”!
Với luận điệu “Xác lập quan điểm mới cho những khoảng trống lịch sử” họ tung hoành bằng các công cụ “lịch sử” họ có trong tay. Chuyện Trần Trọng Kim, mới đây thôi, có xa xôi gì mà họ còn xuyên tạc, bóp méo sự thật, huống chi những chuyện đã qua nhiều thế kỷ. Họ đề cao Phạm Quỳnh – một người hết lòng tận tụy phục vụ bọn xâm lược Pháp – là “người yêu nước đến tận cùng” trên sóng truyền hình VTV6 đầu tháng 2-2017.
Mới ra mắt được 4 tháng, ngày 5/8/1945, hàng loạt thành viên nội các Trần Trọng Kim xin từ chức: 3 bộ trưởng xin từ nhiệm, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh qua đời vì trúng bom máy bay Mỹ. Các bộ trưởng khác tuyên bố bất lực, bởi không thể làm được việc gì nếu không được cố vấn tối cao Nhật đồng ý, trong khi vua Bảo Đại chỉ lo ăn chơi, săn bắn mà không quan tâm đến chính trị. Trần Trọng Kim cố gắng liên hệ nhưng các nhân vật cấp tiến đều khước từ cộng tác, đến đầu tháng 8 chính Trần Trọng Kim cũng nói mình bị "tăng huyết áp" và không ra khỏi nhà. an ninh, quốc phòng và kinh tế tài chánh đều nằm trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà Chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt được trong việc giành lại chủ quyền cho Việt Nam thực tế là chỉ có tính cách biểu tượng.
Làm tay sai cho Nhật. Nhật bại trận, Trần Trọng Kim tìm dựa thực dân Pháp, sống ở trong hang ổ của bọn xâm lược, mong chúng dùng giữa lúc nhân dân ta kháng chiến để giữ độc lập. Pháp bỏ không dùng, đành phải ở ẩn, lấy lời Khổng Tử để tự an ủi.Chính phủ Trần Trọng Kim thực chất chỉ mang tính biểu tượng là chính phủ bù nhìn do Nhật dựng nên mà thôi
Đăng nhận xét