SỰ THẬT LỊCH SỬ CHỈ CÓ MỘT: PHAN THANH GIẢN LÀ TỘI NHÂN MUÔN ĐỜI
Bài của tác giả Nhị Hà được đăng trên Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 462, Blog Sân Đình xin trích nguyên văn, tiêu đề do blog đặt.
Vừa qua,
trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam và trên Website Văn Nghệ Sông Cửu
Long, ông Hoàng Lại Giang có bài viết “Trao đổi với đồng nghiệp” xoay quanh
nhân vật Phan Thanh Giản. Bài viết này đã đưa ra nhiều vấn đề nhằm phản bác lại
quan điểm của một số bài trên các báo trước đó để bênh vực Phan Thanh Giản và
ủng hộ việc tỉnh Bến Tre cho dựng tượng đài Phan Thanh Giản. Đọc bài “Trao đổi
với đồng nghiệp”, tôi không đồng tình với nhiều vấn đề mà ông Hoàng Lại Giang
đề cập như cách cảm nhận thơ văn cụ Đồ Chiểu viết về Phan Thanh Giản, việc Phan
Thanh Giản “đòi lại được” tỉnh Vĩnh Long từ tay Pháp, vấn đề “tin ai” – tin
Trần Huy Liệu hay tin cụ Đồ Chiểu, vấn đề đổi mới lịch sử, việc dựng tượng… Tôi
cho rằng những cách biện giải của ông Hoàng Lại Giang vừa chủ quan, thiếu thực
tế vừa thiếu khoa học và xây dựng. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ giới hạn
phân tích ba vấn đề trong số đó nhằm để rộng đường dư luận.
Thứ nhất:
Chúng ta sẽ không trung thực với lịch sử nếu đổ trách nhiệm để mất Nam kỳ vào
tay Pháp cho Nguyễn Tri Phương, vị tướng anh hùng đã “vị quốc vong thân” và là
chủ soái của phe “chủ chiến” trong triều đình Tự Đức bấy giờ.
Ông Hoàng
Lại Giang dẫn dắt người đọc từ việc Nguyễn Tri Phương đánh thua Pháp trong trận
Kỳ Hòa, rồi “đánh đâu thua đó, thua cho đến khi hy sinh”, “Nguyễn Tri Phương
vẫn luôn chủ chiến, nhưng chiến như thế nào thì trước sau vẫn theo cách … đại
bại” cho đến việc so sánh sứ mệnh đàm phán của Phan Thanh Giản với Pháp ngày đó
và việc đàm phán của Thủ tướng Phạm Văn Đồng với Pháp khi ký Hiệp định Genève
năm 1954. Ông viết: “Kinh nghiệm của những cuộc đàm phán với kẻ thù xâm lược
phải nói đến thế và lực của hai bên. Hiệp định Genève là một minh chứng rõ ràng
nhất. Nếu không có chiến thắng vang dội ở Điện Biên Phủ thì liệu nhà ngoại giao
Phạm Văn Đồng có ký được Hiệp định Genève không? Trong mọi cuộc đàm phán, quân
sự bao giờ cũng đi trước một bước, đúng hơn là phải áp đảo kẻ thù thì mới hy
vọng trên bàn ngoại giao ta mới có được thế chủ động và có lợi”. Điều này không
sai, nhưng ông Hoàng Lại Giang lại chỉ ra cho người đọc thấy rằng do Nguyễn Tri
Phương đánh đâu thua đó “Một vị tướng tài của triều đình nhà Nguyễn mà như thế
thì làm sao có được một nhà ngoại giao tài để có thể dùng ba tấc lưỡi buộc kẻ
xâm lăng trả lại những đất đai chúng đã chiếm” làm cho Phan Thanh Giản mới
không có thế và lực để bước vào đàm phán nên ta mới… mất nước.
Ông Hoàng
Lại Giang quên mất một điều cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi và dấu son
Hiệp định Genève có được là do có Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ lãnh đạo, là
sự thống nhất ý chí cao độ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Đó còn là
kết quả của cuộc kháng chiến trường kỳ kéo dài 9 năm mà những năm đầu thế và
lực của ta so với Pháp như Bác Hồ từng nói “Nay tuy châu chấu đá voi. Nhưng mai
voi sẽ bị lòi ruột ra”. Còn nước Việt Nam đứng trước sự tồn vong 150 năm trước,
lãnh đạo cao nhất của quốc gia là Tự Đức thì “sáng đòi đánh, tối đòi đánh, đánh
miết thì mệ con ta ở mô?”. Chỉ riêng một câu đó thôi của người nguyên thủ quốc
gia dội xuống đầu phe chủ chiến thì thử hỏi quân sĩ nào còn đủ ý chí chiến đấu!
Đó là chưa kể một loạt những mưu sĩ “chủ hòa” và cả tướng “chủ bại” bao quanh
nhà vua như Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp, Nguyễn Bá Nghi, Trương Quốc Dụng,
Trần Văn Trung…
Xin trích
một đoạn trong sách “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa” của tác giả
Nhật Yoshiharu Tsuboi (Sách in từ tài liệu luận án tiến sĩ của Yoshiharu
Tsuboi) để bạn đọc thấy rõ hơn về sự “lãnh đạo” của Tự Đức đối với đạo binh của
Nguyễn Tri Phương:
“Năm
1872, để giải quyết “vấn đề Dupuis”, Phương được cử ra Bắc kỳ với tư cách phải
viên cao cấp của nhà vua, Khâm mạng tuyên sát đổng sức đại thần, có toàn quyền
thương thuyết với Pháp.
Thái độ
của ông đối với Pháp vẫn luôn luôn không khoan nhượng và Jean Dupuis kể lại một
vài kiểu nói của ông:
“Nguyên
soái nói nguyên văn: “Ta sẽ tiêu diệt gia đình chúng nó tận gốc”. Ông cũng nói
là ông sẽ ngăn cản thuyền của tôi ngược lên Vân Nam, và nếu chúng tôi không ra
đi ngay lập tức, ông sẽ cho băm vằm chúng tôi ra từng mảnh nhỏ”.
Cuộc đụng
độ giữa Nguyễn Tri Phương và Jean Dupuis kéo dài dù có sự dàn xếp của giám mục
Puginer. Lúc bấy giờ Tự Đức làm một việc vụng về nghiêm trọng là yêu cầu Thống
đốc Nam kỳ thuộc Pháp giúp đỡ và Thống đốc đã cử Francis Garnier ra Bắc kỳ, với
nhiệm vụ “san bằng” vụ Dupuis.
Cũng vấp
phải sự không khoan nhượng của Nguyễn Tri Phương, Garnier quyết định chiếm
thành Hà Nội. Ngày 20-11-1873, vào 7 giờ sáng, thành bị chiếm. Phương bị thương
nặng vì trúng mảnh đạn trái phá và con trai ông là Nguyễn Lâm bị giết. Một
tháng sau, Phương từ trần.
… Cái
chết của Phương cũng là một biểu tượng, bởi vì nguyên nhân trực tiếp gây ra cái
chết ấy, một mặt là sự không nhất quán trong chính sách ngoại giao của Tự Đức –
khi cầu viện Thống đốc Nam kỳ thuộc Pháp, triều đình đã đưa nước Pháp đến chỗ
can thiệp ở Bắc kỳ – mặt khác là sự yếu kém trong công cuộc phòng thủ của phía
Việt Nam”.
Yoshiharu
Tsuboi là người Nhật, hẳn ông ta không “bênh ai” khi làm luận án tiến sĩ của
mình. Cái kiểu điều binh đâm sau lưng chiến sĩ của Tự Đức như vậy mà Nguyễn Tri
Phương không thua mới lạ.
Khi quy
tội “Nếu trung thực với lịch sử thì phải nói rằng người đã để mất thành Kỳ Hòa
và sau đó là 3 tỉnh miền Đông và một tỉnh miền Tây – Vĩnh Long là Nguyễn Tri
Phương”, ông Hoàng Lại Giang cũng quên mất là sau khi Đại đồn Kỳ Hòa thất thủ
tháng 2 năm 1861, Nguyễn Tri Phương bị điều ngược ra Huế, mặt trận Nam kỳ được
Tự Đức giao lại cho Nguyễn Bá Nghi. Nguyễn Bá Nghi tuy là tướng đánh trận nhưng
vừa vào đến chiến trường, chưa đánh đã vội tâu về triều: “Trừ một chước hòa,
tôi chỉ còn biết chịu tội”. Sau đó khi nghe tin Pháp sắp đánh Biên Hòa, Tự Đức
lại sai Nguyễn Tri Phương đem quân xuống phía Nam cứu viện. Binh tướng Nguyễn
Tri Phương chưa vào đến Bình Thuận thì Pháp đã chiếm được Biên Hòa ngày 14
tháng 12 năm 1861. Kế tiếp, quân cứu viện chưa vào được Nam kỳ thì Pháp đã công
phá thành Vĩnh Long ngày 20 tháng 2 năm 1862. Trong khi đó, Khâm sai Nguyễn Bá
Nghi bỏ ngỏ thành Biên Hòa, đem đại quân rút chạy ngược ra Bình Thuận.
Trong hơn
mười năm đau thương của đất nước, Nguyễn Tri Phương đã hai lần hành quân ra cứu
nguy Hà Nội, hai lần điều binh vào Nam kỳ đánh nhau với Pháp, hai lần bị Tự Đức
rút khẩn cấp về dẹp loạn ở Huế và gần một năm trời tổ chức tử thủ ở mặt trận Đà
Nẵng khiến Pháp sa lầy phải lui binh. Một vị tướng cầm quân vào Nam ra Bắc
không biết mệt mỏi rồi hy sinh anh dũng vì sự tồn vong của dân tộc lại bị ông
Hoàng Lại Giang quy cho cái tội làm mất một phần đất nước! Một vị tướng mà ngay
cả kẻ thù của ông lúc bấy giờ cũng phải ca ngợi là: Một con người xuất sắc về
nhiều mặt, là người yêu nước nồng nàn, là chiến sĩ dũng cảm” (Lời Étienne
Louvet). Còn qua ngòi bút của Hoàng Lại Giang, tôi có cảm tưởng vị tướng không đội
trời chung với quân cướp nước chỉ biết hùng hục đánh, đánh kiểu nào cũng đại
bại không khác gì hữu dõng vô mưu. Sao mà tội nghiệp cho Nguyễn Tri Phương quá.
Nhằm để “nâng” Phan Thanh Giản mà lại đi “hạ” Nguyễn Tri Phương, quả là rất
không nên.
Thứ hai:
Phải chăng ông Hoàng Lại Giang muốn bạn đọc hiểu là câu “Phan Lâm mãi quốc,
triều đình khí dân” không nên là của nhân dân Nam kỳ trong cuộc kháng chiến của
Trương Định mà xuất phát từ phong trào Văn thân Nghệ Tĩnh sau đó được gán cho
nhân dân Nam kỳ.
Ông Hoàng
Lại Giang viết: “Trong cuộc tọa đàm về Phan Thanh Giản năm 1996 ở 43 Nguyễn
Thông, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư có nói hai câu này xuất phát từ quê ông ở
Hà Tĩnh do Trần Tấn và Đặng Như Mai tung lên để kéo quân vào kinh thành lật đổ
triều đình nhà Nguyễn”. Ông viết tiếp: “Còn dân Nam kỳ vẫn tôn trọng triều
đình. Với lại khẩu khí này không phải là khẩu khí của dân Nam kỳ. Tôi thấy
nhiều người nghiêng về ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư”.
Trước
hết, dựa vào đâu mà ông Hoàng Lại Giang (hoặc ông Nguyễn Đình Tư) cho rằng:
“dân Nam kỳ vẫn tôn trọng triều đình. Với lại khẩu khí này không phải là khẩu
khí của dân Nam kỳ”?. Hay các ông là người Nam kỳ chăng? Trong “Tuyên ngôn Quản
Định” (Tạp chí Sử Địa – trang 44) khẩu khí của dân Nam kỳ, của Trương Công Định
là như thế này đây: “Chúng tôi sẽ chống lệnh triều đình” nếu vẫn “duy trì sự đã
rồi bằng cách nhường một phần đất nước và giúp đỡ quân giặc”, “nhân dân ba tỉnh
tha thiết muốn khôi phục địa vị cũ bèn tôn chúng tôi lên làm lãnh tụ. Vậy nên
chúng tôi sẵn sàng chiến đấu và ở miền Đông cũng như miền Tây, chúng tôi sẽ đề
kháng, chúng tôi sẽ xông pha”, vì “dân chúng đã nói “Chúng ta thà chết chứ
không làm tôi tớ cho giặc””. Khẩu khí của dân Nam kỳ trả lời triều đình là hàng
chục ngàn nấm mồ nghĩa binh đã đi theo Quản Định, Thiên hộ Dương, Thủ khoa
Huân, Đốc binh Kiều, Nguyễn Trung Trực, Quản cơ Thành. Lớp trước ngã xuống lớp
sau lại nón chóp tầm vông xông lên. Họ đâu có nghe theo triều đình khi được
Phan Thanh Giản kêu gọi “hãy bẻ gãy giáo và gươm giao thành trì khỏi chống
lại”. Khẩu khí ấy còn là “Thà cho trước mắt mù mù/ Chẳng thà nhìn thấy kẻ thù
quân thân”, “Thà đui mà giữ đạo nhà/ Còn hơn có mắt ông cha không thờ” (Đồ
Chiểu).
Trở lại
với câu “Phan Lâm mại quốc, triều đình khí dân”, xin cứ hỏi bất kỳ một vị học
giả cao niên nào chánh gốc Nam kỳ cũng sẽ nhận được câu trả lời là họ nghe được
từ thời nào. Giáo sư Trần Văn Giàu, cụ Ca Văn Thỉnh, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy
Oanh – tác giả cuốn Chân dung Phan Thanh Giản xuất bản năm 1974 tại Sài Gòn và
rất nhiều vị đã qua tuổi hoa niên thời tiền cách mạng không lẽ họ đã nhầm lẫn
khi viết sách. Cứ cái kiểu “nói vống không sợ đánh thuế” thì rồi sẽ có người
khác bảo những câu như “Bệ hạ muốn hàng thì trước hết hãy chém đầu thần đi đã”,
hoặc “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc” cũng là do sau
này người ta đặt ra để làm tăng sĩ khí và lòng tự tôn dân tộc nhằm chiến thắng
quân xâm lược! Chính nhà vua Tự Đức đã xác nhận dư luận của quần chúng nhân dân
Nam kỳ lúc bấy giờ trong một bài thơ của mình. “Khí dân triều trữ cửu. Mại quốc
thế gian bình”. Giấy trắng mực đen còn đó.
Thứ ba:
Ông Hoàng Lại Giang cho rằng Phan Thanh Giản yêu nước. Mở đầu đoạn văn này, ông
Hoàng Lại Giang dựa vào uy tín của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt “Một lần cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt nói với tôi rằng…” (Xin lưu ý cụm từ “nói với tôi” chứ không
phải được trích dẫn từ một bài phát biểu nào của Thủ tướng Võ Văn Kiệt) để
khẳng định là “Phan Thanh Giản yêu nước theo cách của Phan Thanh Giản”. Lập
luận này tôi rất không đồng tình.
Là mưu sĩ,
nhà ngoại giao số một của triều đình đồng thời cũng là chủ soái của phe “chủ
hòa”, chân dung Phan Thanh Giản đã được chính Tự Đức hai lần vẽ nên. Lần thứ
nhất khi Phan Thanh Giản thay mặt nhà vua đi thương lượng với giặc nhưng lại tự
ý cắt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp bằng hòa ước Nhâm Tuất 1862, Tự Đức trách phạt:
“Hai ngươi (chỉ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp) không những chỉ là tội nhân
của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”. Lần thứ hai Tự Đức kỳ
vọng giao trách nhiệm vào trấn giữ 3 tỉnh miền Tây nhưng Phan Thanh Giản lại
sốt sắng dâng nộp nốt 3 tỉnh này cho Pháp khiến Tự Đức nổi giận xuống chỉ: “Đến
như Phan Thanh Giản thì thủy chung đều quanh quất, lời nói không theo được việc
làm, đem học vấn danh vọng một đời trút sạch ra bể Đông, thực là táng tận lương
tâm, quá đỗi phụ ơn. Mặc dù lấy cái chết để tự phạt nhưng cũng chưa đủ đền bù
cho trách nhiệm”. Chân dung Phan Thanh Giản tưởng không gì rõ hơn thế.
Trong bức
“Công thơ” của Phan Thanh Giản gửi Tổng đốc An Giang và Hà Tiên ngày 20 tháng 6
năm 1867 sau khi mở ngỏ cửa thành Vĩnh Long rước Pháp vào, ta sẽ thấy “cách yêu
nước” của Phan Thanh Giản: “Người Phú-lang-sa có chiến thuyền to, chở đầy quân
và đại bác. Không người nào có thể chống lại. Người Phú-lang-sa muốn đến đâu
cũng đặng, những đồn lũy chắc chắn cũng phải bể… Vậy bản chức viết công thơ cho
các quan văn cũng như cho các tướng võ hãy bẻ gãy giáo và gươm giao thành trì
khỏi chống lại… Hỡi các quan và lê dân, các người có thể sống dưới sự điều
khiển của người Phú-lang-sa, những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh
mà thôi”. Người Việt Nam vốn có truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”,
vậy những lời lẽ trên của Phan Thanh Giản thì phải giải thích làm sao? Có phải
vì quá khiếp sợ mà đầu hàng giặc hay là chỉ vì thương và tránh cho “con dân”
khỏi nạn binh đao? Cứ cho là Phan Thanh Giản thương dân nên đầu hàng, giao đất
giao thành cho giặc nhưng nếu tiền nhân nước Việt ai cũng thương dân kiểu đó
thì liệu còn nước Nam này cho dân tộc ta không? Còn nước để mà yêu không? Việc
Phan Thanh Giản gởi mật thư cho Bonard, cho Tự Đức đề nghị tiêu diệt Trương
Định, Võ Duy Dương, bắt giữ người liên lạc của Trương Định rồi gởi thư thông
báo cho Pháp là yêu nước sao?
Khi Quản
cơ Thành, tức Trịnh Quang Nghị bắt giết những người theo Pháp (sau này Quản cơ
Thành cũng rời bỏ triều đình, mộ quân khởi binh chống Pháp ở An Giang, Trịnh
Quang Nghị mà còn phán: “Nghị chỉ vì yêu nước mà hoạt động. Giết Nghị tức là tự
mình ly gián với nhân dân”. Một ông vua ươn hèn, khiếp nhược như Tự Đức còn có
lúc biết thế nào là yêu nước, thế nào là lòng dân. Còn Phan Thanh Giản thì lại
sốt sắng, quyết liệt bảo vệ quyền lợi xâm lược của Pháp một cách triệt để, coi
những nghĩa sĩ chống Pháp như kẻ thù của mình. Đây là một đoạn trong thư Phan
Thanh Giản gởi Lagrandière để chia buồn về cái chết của Trung tướng Hải quân
Bonard – là người đã cùng ký Hiệp ước Nhâm Tuất với Phan Thanh Giản: “Hồi ấy,
Đại Phú-lang-sa đã lưỡng lự về vấn đề lấy xứ Nam kỳ làm thực dân địa. Khi một
lần đối thoại giữa ông ấy và tôi để định ngày cho cuộc thương nghị và vấn đề
một khi đã giải quyết xong, những tư tưởng và nguyện vọng của chúng tôi hóa
thành một”. Còn gì để nói nữa khi chính Phan Thanh Giản là người chủ động thúc
dục Bonard chiếm Nam kỳ làm thuộc địa trong khi viên tướng này còn lưỡng lự
chưa quyết. Và như vậy, nói Phan Thanh Giản “yêu nước Pháp” theo cách của Phan
Thanh Giản có lẽ thuyết phục hơn.
Quân Pháp tấn công Gia Định (tranh tư liệu)
Những
hoài nghi, những đoan quyết về một Phan Thanh Giản yêu nước thực ra đều khởi
nguyên từ một chén thuốc độc mà ông đã tự xử. Vị tiến sĩ văn tài như thế, thanh
liêm như thế, cúc cung tận tụy 3 triều vua mà cuối cùng phải dành cho mình chén
thuốc độc. Nhiều người xót xa thương cảm. Tôi cũng xót xa thương cảm. Nhưng cái
chết của Phan Thanh Giản là tử tiết thì tuyệt đối không phải. Tôi đã có bài
viết phân tích về cái chết của Phan Thanh Giản nhưng nhân việc ông Hoàng Lại
Giang cho rằng Phan Thanh Giản yêu nước, thiết nghĩ cũng cần đề cập lại.
Ngày 20
tháng 6 năm 1867, Phan Thanh Giản giao thành Vĩnh Long cho Pháp, sau đó gởi báo
cáo kèm triều phục và ấn triện theo tàu Mẫn Thỏa hỏa tốc về Huế để nhận phạt.
Đến ngày 19 tháng 7 năm 1867, tức là gần trọn một tháng không thấy Tự Đức trả
lời, Phan Thanh Giản mới bắt đầu tuyệt thực. Mười lăm ngày sau nữa tin nhạn vẫn
bặt tăm, Phan Thanh Giản quyết định uống thuốc độc tự vận. Ông vật vã gần ba
ngày mới tắt thở. Đó là ngày 4 tháng 8 năm 1867.
Đã có quá
nhiều bút mực lý giải cái chết của Phan Thanh Giản nhưng Phan Thanh Giản chờ Tự
Đức trả lời trong một tháng rưỡi mới tự tử là có thật. Nếu tử tiết sao ông không
tự sát ngay như Tổng đốc Hoàng Diệu, như Tổng trấn Võ Duy Ninh? Tại sao phải
chờ đợi? Chúng ta lại nhớ, lần tự ý nhượng 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, Tự Đức
tuy phán Phan Thanh Giản là tội đồ, mà tội ấy phải xử trảm, nhưng chỉ xử Phan
Thanh Giản tội cách lưu. Tất nhiên là vì Tự Đức vẫn rất cần Phan Thanh Giản
trong mối quan hệ với Pháp. Mặt khác, bội ước với Pháp sẽ lãnh hậu quả đáng sợ
hơn. Sự chờ đợi trong lần nhận tội thứ hai này, không gì khác hơn là Phan Thanh
Giản vẫn kỳ vọng vào ân sủng của thánh chúa. Nhưng lần này Phan Thanh Giản đã
đi quá xa, Tự Đức không những không cứu được Phan Thanh Giản mà còn phải xử ông
tội trảm hậu. Phan Thanh Giản đã chọn chén thuốc độc để chết trước!
Có một
chi tiết khá lạ lùng được ghi trong thư của Thiếu tá Ansart gởi Thiếu tá Tổng
tham mưu trưởng Reboul về những giây phút hấp hối của Phan Thanh Giản. Thiếu
tá Ansart, linh mục Marc và y sĩ Coniat là 3 người Pháp có mặt thường trực lúc
Phan Thanh Giản lâm chung. Ansart viết: “Chúng tôi đã phải gần như ép buộc ông
và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới khiến ông nuốt được một chút
giải độc. Nhưng, ngay khi ông được biết là các quan đã bỏ đi, và chỉ còn mình
ông với chúng tôi, thì ông đã thuận mọi điều. Than ôi, khi đó đã quá muộn! Và
điều cho thấy rõ tư tưởng của ông đã theo một chiều tốt đẹp hơn, là hai lần ông
hỏi cha Marc: “Tôi sẽ thoát được chăng?”. Rủi ro thay, Thiếu tá biết chung cục
như thế nào”. Xin được dành sự luận giải đoạn thư trên cho người đọc.
Việc
triều đình Tự Đức yếu hèn để mất nước nhanh chóng và việc Phan Thanh Giản chủ
động dâng Nam kỳ cho Pháp làm thuộc địa là những sự thật lịch sử không thể chối
cãi. Nguyên nhân và tác nhân có thể có rất nhiều, nguyên nhân khách quan và chủ
quan, tác nhân trực tiếp và gián tiếp… Chúng ta đều thuộc lớp hậu thế, việc
nghiên cứu phẩm bình công tội của người đi trước phải hết sức cẩn trọng, không
thể chủ quan áp đặt. Lịch sử là khoa học. Khoa học không phải là bất biến nhưng
cũng không hề bay bổng như văn chương. Sự thật lịch sử chỉ có một. Điều khác
biệt là người ta giải mã sự thật lịch sử ấy bằng tâm ý nào.
SỰ THẬT LỊCH SỬ CHỈ CÓ MỘT: PHAN THANH GIẢN LÀ TỘI NHÂN MUÔN ĐỜI
Reviewed by Sân Đình
on
14:23
Rating:

4 nhận xét:
Chúng ta đều thuộc lớp hậu thế, việc nghiên cứu phẩm bình công tội của người đi trước phải hết sức cẩn trọng, không thể chủ quan áp đặt. Lịch sử là khoa học. Khoa học không phải là bất biến nhưng cũng không hề bay bổng như văn chương. Sự thật lịch sử chỉ có một. đã là lịch sử thì cần phải đúng sự thật.
Nói chung chung vậy cũng được sao Hoàng Nam.
Chuyện tội trạng của Tự Đúc,hay Phan Thanh Giản thì đã quá rõ ràng.Nó tồn tại trong miệng thế gian.Nó tồn tại trên giấy trắng mực đen.Kẻ nào muốn làm sai lệch nó thì chỉ là là kẻ có mắt không tròng.Là kẻ ngu hơn súc vật.Có lẽ các vị hiểu biết đừng trao đổi với các loại người như Hoàng lại Giang cho bẩn mồm.
Sau nam 1945 moi co chuyen chinh thuc ket toi Trieu Nguyen
Đăng nhận xét