MÀI MỰC RU CON, MÀI SON ĐÁNH GIẶC
Các nhà biên soạn từ điển giải thích tục ngữ
“Mài mực ru con, mài son đánh giặc”, rất khác nhau:
Nhóm thứ nhất:
-“Từ điển thành ngữ Việt Nam” (Viện
ngôn ngữ học – Nhóm Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành) giải
thích: “Mài mực ru con, mài son đánh giặc (Các đồ nho) vừa
giúp việc nhà, vừa giúp việc nước Nhiều nhà nho chúng ta chẳng quản mài
mực ru con, mài son đánh giặc”.
-“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”
(GS Nguyễn Lân): “Mài mực ru con, mài son đánh giặc Nói các
ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong
nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự”.
- “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” (Nguyễn
Cừ): “Mài mực dạy con, mài son đánh giặc Phụ nữ Việt Nam có
truyền thống đẹp đẽ, đối với gia đình đảm đang mài mực dạy con học, khi có kẻ
thù xâm lược thì mài son là dùng mỹ nhân kế tiêu diệt kẻ thù”.
- “Từ điển thành ngữ-tục ngữ-điển tích Việt
Nam” (Nhóm Lê Văn Đức biên soạn-Lê Ngọc Trụ hiệu đính): “Mài mực ru
con, mài son đánh giặc thng: Cảnh tao nhã của người hay chữ, của
một xã hội văn vật”.
Nhóm thứ hai:
-“Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương): “Mài
mực dỗ con; mài son đánh giặc: Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả)
dỗ con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đi đánh giặc”. Sách
này đưa thêm dị bản: “Mài mực ru con; mài son đánh giặc” và giải thích:
“Mài mực (nho là việc dễ làm con hơn cả) ru con; mài son (cục là việc khó làm
còn hơn cả) cầm quân đi đánh giặc”.
-“1575 thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm” (Lê Gia): “Mài
mực ru con, mài son đánh giặc Thỏi mực thì mềm và đen nên khi muốn
mài ra với nước mà chấm bút viết thì nên mài nhẹ tay như là khi mình ru con
vậy, nếu không thỏi mực sẽ gẫy nát. Hòn son là một cục đá cứng và đỏ nên khi
muốn mài ra với nước để chấm bút mà viết thì phải mài cho thật mạnh tay như khi
đánh giặc vậy, bột son mới bể ra”.
Thầy đồ và môn sinh ngày xưa
Theo chúng tôi, cách giải thích của nhóm một
không có cơ sở thực tế, vì:
-Vừa dạy học vừa “làm việc vặt”, khi có
giặc thì tham gia “phục vụ quân sự”, không phải hình ảnh điển hình của
thầy đồ xưa; càng không thể hiểu đó là “Cảnh tao nhã của người hay chữ, của
một xã hội văn vật”.
- Phụ nữ xưa không học chữ thánh hiền, nên
không thể là người “mài mực dạy con”; son không phải đồ trang điểm của
phụ nữ, nên cũng không thể hiểu “mài son” thành “dùng mỹ nhân kế tiêu
diệt kẻ thù”.
Với nhóm thứ hai:
-Cứ theo các giảng của Nhà ngữ học Nguyễn Đức
Dương, thì câu tục ngữ đưa ra nhận xét về độ khó dễ của mài
mực và mài son: “ru con” (hoặc “dỗ con”) đã dễ, mài mực còn
dễ hơn; đánh giặc đã khó, mài son còn khó hơn. Tuy nhiên, trẻ nhỏ mà quấy khóc,
“ru” (hoặc “dỗ”) cho nó ngủ đâu có dễ? “Mài mực” cũng đâu dễ tới mức “dễ
làm còn hơn cả” ru con, dỗ con? Mặt khác, “mài son”
mà là “việc khó làm còn hơn cả” cầm quân đi đánh giặc, hoá ra chuyện “cầm quân
đi đánh giặc” chẳng dễ lắm sao? Mà câu tục ngữ cũng không hề có bất cứ từ
ngữ nào diễn đạt chuyện khó hơn hay dễ hơn.
-Thỏi mực cũng không hề “mềm”, dễ
“gãy nát” so với son; màu sắc (“đen”) của mực, hay màu (“đỏ”) của son,
cũng không phải là nguyên nhân khiến người ta phải mài nhẹ hay mài mạnh tay như
cách giảng của Lê Gia.
Thực ra, câu tục ngữ này nói đến kinh nghiệm,
phương pháp khác nhau trong mài mực và mài son, được diễn giải như sau: Mài
mực (thì phải mài nhẹ nhàng như) ru con; mài son (thì phải mài mạnh như đi)
đánh giặc.
"Nhân phi ma mặc, mặc ma nhân"
(Người không mài
mực, mà mực mài người)
Mực tàu được làm từ muội khói của một số loại
cây gỗ (khi đốt cháy), chế với nước keo, hương liệu, luyện nhuyễn cho tới dẻo
quánh, rồi nén thành thỏi. Mực thỏi để lâu rắn đanh lại, nhưng khi mài lại không
được mạnh tay. Nếu sốt ruột, mài mạnh tay cho nhanh, mực nhiều hạt
sạn, khi viết, bút bị xơ, nét đã không đẹp, lại thêm hại bút. Ngược lại, phải
kiên trì mài nhẹ nhàng, êm tay (như “ru con”), để mực trong thỏi được bào dần,
mòn dần từng tí, hoà tan, quyện với nước, cho một thứ mực mịn màng, sóng sánh,
khi viết đầu bút chụm lại, bút lông có độ đàn hồi tốt, nét bút không bị xơ,
cứng, mặt chữ bóng, đẹp.
Với “mài son”, xưa kia, người ta dùng một loại
khoáng thạch có màu đỏ tự nhiên, gọi là chu sa [朱砂] để làm son và làm thuốc. Thông thường son
không dùng để viết, mà để phê, khuyên, đóng ấn, triện, nên không cần phải mịn
như mực[1]. Mặt khác, son là liên kết của thuỷ ngân kết tinh ở dạng hạt như cát,
dẫu mài nhẹ nhàng cũng không mịn được như mực. Do đó, khi mài son được phép mài
(và phải mài) thật lực (như đi “đánh giặc”) vậy.
Theo một cách truyền đạt kinh nghiệm mài mực khác, tục ngữ
còn có câu “Mực mài tròn, son mài dài”. Khi mài mực, tay giữ cố định cho thỏi mực
luôn vuông góc với mặt nghiên, rồi nhẹ nhàng, đều tay mài theo vòng tròn của
lòng nghiên. Động tác này khiến người ta có sốt ruột muốn mài mạnh tay cũng
không được; ngược lại khi mài son, phải mài theo đường thẳng (giống thợ mộc bào
gỗ) cho có lực, để chất son nhanh thấm ra nước. Mặt khác, động tác “mực mài
tròn”(lúc ngược, lúc xuôi theo chiều
kim đồng hồ), tiết diện của đầu thỏi mực luôn áp song song với mặt nghiên, lực
mài luôn ổn định, lại có tác dụng vừa mài vừa chà, làm cho mực càng được mịn
thêm.
Như vậy, câu tục ngữ “Mực mài tròn, son mài
dài” góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề: mài mực CẦN PHẢI nhẹ tay, chứ không phải
CHỈ CẦN mài nhẹ tay. Nếu vấn đề chỉ đơn giản là thỏi mực mềm, dễ mài hơn cục
son cứng, thì “mực mài tròn” hay “mài dài” đâu có quan trọng. Nói cách khác,
người ta sẽ mài mực theo cách của mài son cho nhanh.
Tục ngữ Hán có câu “人 非 磨 墨 墨 磨 人”-Nhân phi ma mặc, mặc ma nhân [dị
bản "非人磨墨, 墨磨人] - Người không mài mực, mà mực mài người”, ý nói chính thỏi mực
mới là vật đang mài mòn ý chí, thử thách lòng kiên trì của con người vậy[2].
Lại có câu “讀 書 真 事 業 磨 墨 靜 功 夫 – Độc thư chân sự nghiệp, ma mặc tịnh công phu - Học hành là một sự nghiệp; mài mực
cũng cần khổ công”. Thế nên, học trò xưa đi học, việc đầu tiên là phải gò
lưng mài mực cho thầy, rồi sau mới đến chuyện học chữ.
Có một câu chuyện khác liên quan đến
mài mực. Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh - tác giả “Thanh Hoá quan phong”
và “Thanh Hoá kỷ thắng”, là người có tiếng văn hay chữ tốt. Sách “Lịch
sử thư pháp Việt Nam” (Nguyễn Sử - NXB Thế giới, 2017) chép: “Vương Duy
Trinh 王維貞 (?-?), tự
Tử Cán, hiệu Đạm Trai,
người Hà Nội, đỗ cử nhân năm 1870, làm quan Tổng đốc Thanh Hoá. Tác phẩm thư
pháp còn lại là thơ đề chùa Long Cảm. Lối chữ có kểt thể giản đơn, nhưng ổn
định và chắc chắn”.
Thường khi xong việc quan, Tổng đốc Vương Duy Trinh thích
dành thời gian cho thư pháp. Ông rất cầu kì trong chuyện mài mực. Làng Hạc Oa,
(nay thuộc TP Thanh Hoá) có người (không rõ tên thật), vì mài mực rất khéo, nên
được Tổng đốc chọn chuyên mài mực cho mình, sau được ban hàm Cửu phẩm, tục gọi
là ông Cửu Mặc (Cửu phẩm mài mực)[3].
Ngày nay, nếu ngại mài mực, đã có loại mực pha sẵn, gọi là “mặc
trấp” 墨汁 (mực nước). Tuy nhiên, mực pha sẵn viết không đẹp,
không thơm hương bằng mực mài. Bởi vậy, một số nước như Nhật Bản, Trung Quốc,
Hàn Quốc… chế ra chiếc máy mài mực (磨墨機-ma mặc cơ). “Tay máy” (có gắn mô tơ chạy chậm) kẹp cố định thỏi mực, rồi
máy cũng nhẫn nại “mài tròn”, chầm chậm giống như mài mực thủ công. Tuy thế
cũng mất vài tiếng mới được một mẻ. Xét thực tế, mài mực còn khó hơn cả mài
son, vì mài mực yêu cầu phải có kĩ thuật và lòng kiên nhẫn hơn mài son.
Những câu chuyện trên đây cho thấy, việc “mài
mực” công phu, quan trọng biết chừng nào!
Như vậy, vấn đề ở đây không phải do mực tàu
mềm, dễ mài hơn so với son, mà là kỹ thuật mài mực cần nhẹ nhàng, từ từ, khác
với mài son thì được phép mài mạnh tay.
Theo chúng tôi, trong số rất nhiều cuốn từ
điển, cách giảng sau đây của “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (Vũ
Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào-NXB Văn Hoá, 2000), tuy chưa giải thích cụ thể
nghĩa đen, nhưng cơ bản là đúng: “Mài mực ru con, mài son đánh giặc (mực:
thỏi mực màu đen mài ra để viết; son: đá đỏ, mài ra làm mực viết, vẽ bằng bút
lông) Một kinh nghiệm mài son và mài mực: mài mực thì nhẹ tay (như người ru
con), mài son thì mạnh tay (như người đánh giặc)”.
Chú thích:
[1]-Sách “Vân Đài loại ngữ” (Lê Quý Đôn) viết: “Về đại
giả thạch (đá dùng làm son viết), sách Bản thảo nói: “Đá mài ra có sắc đỏ, thì
chấm được sách.Sách Sơn hải kinh nói “Lấy nước son bôi vào chân ngựa, thì trừ
được bệnh”; lại chua rằng: “Son là đất đỏ, nay người ta lấy son bôi vào sừng
trâu, thì trừ được bệnh”.
[2] - "Nhân phi ma mặc,
mặc ma nhân" (Người không mài mực, mà mực mài người) còn có nghĩa bóng,
chỉ việc học hành, bút mực phải hao tổn tâm trí.
[3] – Chuyện về ông Cửu Mặc do Lương y Đỗ Tấn Long (người Hoằng
Hoá, Thanh Hoá) cung cấp cho tôi năm 2003. Như vậy, nếu vua Tự Đức từng phong
cho cái nghiên mực quý của mình tước Hầu, gọi là "Tức Mặc Hầu", thì
Tổng đốc Vương Duy Trinh lại có một người mài mực, được ban hàm Cửu phẩm, gọi
là ông Cửu Mặc. Đủ biết, câu chuyện Văn phòng tứ bảo thú vị biết chừng
nào!
Cụ Đỗ Tấn Long còn cho biết, trước năm 1945, tuy khoa cử phong kiến đã suy tàn, nhưng theo nếp cũ, trẻ con lớn lên, những nhà có điều kiện vẫn cho đi học chữ Nho. Cụ Đỗ Tấn Long được thầy đồ cho luyện theo mẫu chữ chân của Tổng đốc Vương Duy Trinh. Nay xem những thông tin về thư pháp của Vương Duy Trinh trong sách “Lịch sử thư pháp Việt Nam” của Nguyễn Sử, thì thấy câu chuyện không phải chỉ là giai thoại.
Cụ Đỗ Tấn Long còn cho biết, trước năm 1945, tuy khoa cử phong kiến đã suy tàn, nhưng theo nếp cũ, trẻ con lớn lên, những nhà có điều kiện vẫn cho đi học chữ Nho. Cụ Đỗ Tấn Long được thầy đồ cho luyện theo mẫu chữ chân của Tổng đốc Vương Duy Trinh. Nay xem những thông tin về thư pháp của Vương Duy Trinh trong sách “Lịch sử thư pháp Việt Nam” của Nguyễn Sử, thì thấy câu chuyện không phải chỉ là giai thoại.
Bài viết có tham vấn ý kiến của các Nhà nghiên
cứu và thư pháp Nguyễn Sử, Xuân Như; Nhà địa chất học Nguyễn Quốc Cường. Chúng
tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp quý báu và mong tiếp tục nhận được sự góp
ý cụ thể của các vị.
MÀI MỰC RU CON, MÀI SON ĐÁNH GIẶC
Reviewed by Sân Đình
on
09:25
Rating:

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét